Phong thủy Kinh thành Huế: Có hay không lệ 'tứ bất lập'?

Bùi Ngọc Long
Bùi Ngọc Long
25/08/2023 07:08 GMT+7

Trong sử sách triều Nguyễn không hề nhắc đến lệ "tứ bất lập", nhưng trên thực tế triều Nguyễn thì sau vua Gia Long cho đến đời vua Bảo Đại mới có phong hoàng hậu. Lệ "tứ bất lập" có liên quan gì đến phong thủy?

CHÍNH SỬ KHÔNG GHI CHÉP

Trên Báo Thừa Thiên-Huế (ngày 10.12.2022), trong bài tường thuật của tác giả Nhật Minh về buổi nói chuyện "Lệ tứ bất lập dưới triều Nguyễn" tổ chức tại Trung tâm văn hóa Phật giáo Liễu Quán (TP.Huế, Thừa Thiên-Huế) cho biết, tại buổi nói chuyện, nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn, Phó chủ tịch Hội Nghiên cứu và phát triển di sản văn hóa Huế, nhận định vấn đề "tam bất khả" hay "tứ bất lập" là không có cơ sở.

Phong thủy Kinh thành Huế: Có hay không lệ 'tứ bất lập' ?
 - Ảnh 1.

Chân dung vua Minh Mạng, người đã định lệ “tứ bất lập”

Tư liệu

Ông Trần Đình Sơn đã dẫn chứng một số tác phẩm sách sử chính thống được xuất bản có viết về "luật tứ bất" (không đặt tể tướng, không lập hoàng hậu, không lấy trạng nguyên và không phong tước vương) dưới triều Nguyễn. Tuy nhiên, sự thật không phải như vậy.

Theo ông Sơn, thực tế vua Gia Long khi lên ngôi hoàng đế tại điện Thái Hòa (1806) đã làm lễ truy tôn huy hiệu cho tổ tiên (các đời chúa Nguyễn). Sau đó, tấn tôn mẹ Nguyễn Thị Hoàn lên ngôi hoàng thái hậu và sách lập vợ chính là Tống Thị Lan làm hoàng hậu.

Các vị vua Nguyễn kế tiếp không lập hoàng hậu, chỉ có hoàng quý phi là bậc cao nhất trong nội cung đều có lý do riêng chính đáng. Nhưng đến Bảo Đại (1926 - 1945), vị vua cuối cùng triều Nguyễn, sau lễ thành hôn với bà Nguyễn Hữu Thị Lan đã tấn phong ngay làm Hoàng hậu Nam Phương. "Như vậy việc lập hoàng hậu hay không tùy theo hoàn cảnh đề nghị, nội tình hoàng gia để vua suy nghĩ lựa chọn quyết định", ông Sơn nhận định.

Về tể tướng, đời Gia Long, sau thời gian dài đất nước bị chia cắt loạn lạc, để thuận tiện việc quản trị hành chính, vua cho lập Bắc thành (gồm các địa phương từ Ninh Bình trở ra bắc) và Gia Định thành (từ Biên Hòa trở vào nam). Nhà vua chọn lựa các vị khai quốc công thần hàng đầu bổ nhiệm vào chức vụ tổng trấn, đứng đầu mỗi thành. Tổng trấn có quyền hạn rất lớn, có thể xem như hai vị tả, hữu tướng quốc (hoặc phó vương). Đến triều Minh Mạng, vua cải cách hành chính bãi bỏ cấp "thành" và chức vụ tổng trấn. Toàn quốc chia làm 30 tỉnh, trực thuộc triều đình trung ương. Đứng đầu triều đình có "tứ trụ đại thần" (Cần Chánh, Văn Minh, Võ Hiển, Đông Các đại học sĩ) phụ tá nhà vua. Tránh tình trạng quyền hành tập trung vào tay một hoặc hai người dễ phát sinh họa thao túng, chuyên quyền như các triều đại trước.

Bàn về thi cử, nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn thống kê, suốt thời Gia Long chỉ tổ chức được 3 khoa thi hương. Sở dĩ chưa tổ chức thi hội vì thời điểm đó nước nhà mới thống nhất sau thời gian dài bị phân ly, việc học hành giữa hai miền Nam - Bắc khác nhau. Đứng đầu guồng máy cai trị từ địa phương đến trung ương hầu hết là võ quan cao cấp. Ngoài ra, số tiến sĩ đào tạo từ thời Lê còn nhiều, đa số chịu ra hợp tác với Gia Long, chưa có nhu cầu tuyển thêm tiến sĩ. "Như vậy triều Gia Long chưa tổ chức thi hội, thi đình làm sao có trạng nguyên?", ông Sơn đặt câu hỏi.

Trong khi đó, đến thời Minh Mạng, năm 1822 lần đầu tiên tổ chức thi hội, thi đình. Nghiên cứu rất nhiều tài liệu, ông Sơn chỉ rõ, từ năm 1822 - 1919 triều Nguyễn tổ chức được 39 khoa thi hội, thi đình lấy đỗ 280 tiến sĩ, trong số đó có 8 người đỗ đệ nhất giáp. Nhưng không ai đạt đủ 10 điểm để chiếm học vị trạng nguyên, người đỗ cao nhất là Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ nhị danh Phạm Thanh (Trương Xá - Thanh Hóa) tức bảng nhãn, khoa Tân Hợi triều Tự Đức (1851).

Ở "luật tứ bất" cuối cùng là tước vương, nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn nhận định, các vua triều Nguyễn rất hạn chế việc phong tước trong hoàng gia. Tước vương chỉ phong cho các hoàng thân lớn tuổi có học thức, đạo cao đức trọng nổi tiếng như Thọ Xuân vương Miên Định, Tuy Lý vương Miên Trinh... Điều này nhằm khuyến khích các thành viên trong hoàng tộc phải nỗ lực học tập, tu dưỡng đạo đức.

Phong thủy Kinh thành Huế: Có hay không lệ 'tứ bất lập' ?
 - Ảnh 2.

Tượng đồng vua Gia Long do cơ sở đúc đồng của nghệ nhân Nguyễn Văn Thuận (P.Phường Đúc, TP.Huế, Thừa Thiên-Huế) đúc cho đền thờ vua Gia Long ở Phú Quốc

Bửu Nam

THỰC TẾ VẪN "HẠN CHẾ"

"Dù không đặt ra thành văn nhưng gần như trong thực tế ai cũng nhìn thấy dưới triều Nguyễn có "tứ bất lập". Chính vua Minh Mạng đã định lệ ra

2 điều đó là không lập hoàng hậu và không lập thái tử. Lý do từ đặc điểm xuất thân của ông là con bà thứ, tức là không phải con của Thừa Thiên Cao hoàng hậu Tống Thị Lan. Nên khi bà Tống Thị Lan chết, mẹ ông là bà Trần Thị Đang điều hành toàn bộ công việc nội cung nhưng cũng không phải hoàng hậu. Chính vì vậy, nếu ông phong hoàng hậu đối với các phi tần của mình thì sẽ khiến người ra nghĩ đến việc ông là con thứ chứ không phải con trưởng. Điều thứ hai, ông không lập thái tử cũng là để tránh tranh chấp đối với con cái của ông sau này. Bên cạnh việc không phong hoàng hậu và thái tử, vua Minh Mạng còn cao tay hơn khi đặt ra đế hệ và phiên hệ, để tránh xảy ra tranh chấp trong con cháu và hoàng tộc về sau. Không những thế, vua Minh Mạng còn quy định người bên họ ngoại không được tham gia chính sự", nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Hoa cho biết.

Theo TS Đoàn Trung Hữu, lệ "tứ bất lập" sử sách không nêu là vì không vị vua nào đem lý do thuộc về "huyền cơ" phong thủy của cuộc đất mà ghi vào sử sách. Thực tế, như đã phân tích ở các bài trước, cuộc đất Kinh đô Huế tuy có địa cuộc đế vương, nhưng vẫn có nhiều khiếm khuyết. Như đã nói cánh Bạch Hổ tức của nữ giới rất mạnh, trong khi phần huyền võ yếu nên vị thế của "chủ nhân Kinh thành là ngôi vua" rất dễ có nguy cơ bị tiếm quyền. Vì vậy, để khắc phục triều Nguyễn một mặt nỗ lực đào sông, dẫn thủy để cải tạo địa cuộc, một mặt hạn chế đối với 4 yếu nhân quan trọng cận kề nhà vua, nhất là không lập tể tướng, không lập hoàng hậu, không lấy trạng nguyên và không phong tước vương.

 (còn tiếp) 

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.