Xuất khẩu rau quả gặp khó nếu chỉ 'đi' máy bay

07/09/2023 06:33 GMT+7

Phải mất rất nhiều năm VN mới thành công đàm phán mở cửa thị trường cho rau quả xuất khẩu vào Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc. Nhưng giá trị xuất khẩu rau quả vào những thị trường này vẫn ì ạch, thậm chí là lép vế, ngay cả những mặt hàng có thế mạnh.

Thị phần siêu nhỏ ở các thị trường lớn

Số liệu báo cáo về thị trường xuất khẩu rau quả 7 tháng đầu năm nay của Bộ Công thương cho thấy giá trị xuất khẩu hàng rau quả VN sang Mỹ đạt 140,5 triệu USD, giảm 11,2% so với cùng kỳ năm 2022; Nhật Bản đạt 105,6 triệu USD, tăng 5,5%; Hàn Quốc đạt 125,1 triệu USD, tăng 13%. Qua theo dõi trong nhiều năm, Bộ Công thương nhấn mạnh đây là những quốc gia có nhu cầu nhập khẩu rất lớn các mặt hàng rau quả nhưng xuất khẩu của VN vào các thị trường này chiếm thị phần rất nhỏ, thậm chí là siêu nhỏ và vẫn còn nhiều dư địa để doanh nghiệp (DN) khai thác.

Cụ thể, trong giai đoạn 2018 - 2022, mỗi năm Mỹ chi ra 46 tỉ USD nhập khẩu rau quả, nhưng trị giá nhập khẩu từ VN chiếm chưa đến 0,6%. Thị trường Hàn Quốc có nhu cầu nhập khẩu rau quả trung bình đạt 3,9 tỉ USD/năm thì nhập khẩu từ VN chỉ chiếm 4,3%. Còn với Nhật Bản, mỗi năm nước này nhập khẩu hàng rau quả khoảng 10 tỉ USD nhưng thị phần nhập khẩu từ VN chỉ có 0,6%.

Xuất khẩu rau quả gặp khó nếu chỉ 'đi' máy bay - Ảnh 1.

Vải là trái cây đặc sản nhưng không có công nghệ bảo quản dài ngày, chất lượng không ổn định nên khó xuất khẩu số lượng lớn đến các thị trường giá trị cao như Mỹ, Nhật Bản

PHAN HẬU

Theo lý giải của ông Tạ Đức Minh, Tham tán Thương mại VN tại Nhật Bản, nguyên nhân đầu tiên là nhiều loại trái cây tươi chưa có công nghệ bảo quản để đi theo đường biển với chi phí vận tải thấp, đi số lượng lớn. Và vấn đề Nhật Bản e ngại nhất là chất lượng hàng hóa không đồng đều, ổn định. Cụ thể, những lô hàng đầu tiên số lượng ít, DN xuất khẩu kiểm soát chất lượng rất tốt; nhưng khi khối lượng nhiều hơn thì chất lượng lại giảm sút. Ngoài ra, trái cây VN nhập khẩu vào Nhật Bản vẫn bị phát hiện vi phạm tồn dư thuốc bảo vệ thực vật khiến người tiêu dùng sẽ có ấn tượng không tốt về rau quả VN.

Ông Nguyễn Đình Tùng, Tổng giám đốc Công ty Vina T&T, cho rằng Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản đều là những thị trường khó tính, đặt yêu cầu rất cao về tiêu chuẩn chất lượng. Cụ thể với Mỹ, trái cây tươi xuất khẩu bắt buộc phải chiếu xạ và đây cũng là thị trường có khoảng cách địa lý rất xa VN. Nếu không có công nghệ bảo quản dài ngày thì không có cách nào tăng được thị phần của rau quả VN nếu hàng chỉ đi bằng đường máy bay.

Ông Tùng dẫn chứng với trái xoài, công nghệ bảo quản tối đa khoảng 30 ngày; nếu đi theo đường biển đã mất 20 ngày mới cập cảng, chờ kiểm dịch, thông quan, lấy hàng xong chỉ còn vài ngày để bán hàng, rủi ro rất cao. "Nhiều loại trái cây đặc sản như nhãn lồng Hưng Yên, vải thiều… có mùa vụ rất ngắn, không bảo quản được để đi đường biển nên câu chuyện rau quả xuất khẩu vào thị trường Mỹ hiện nay dù nhu cầu lớn, giá cao nhưng không tăng được sản lượng", ông Tùng nói.

Việt Nam ‘độc chiếm’ thị trường sầu riêng tươi

Đầu tư công nghệ bảo quản, chế biến sâu

Khắc phục điểm yếu công nghệ chế biến trong những mặt hàng rau quả thế mạnh của VN là vấn đề được các DN đầu tư để đẩy mạnh xuất khẩu đến các thị trường xa, khó tính.

Trong mùa vải vừa qua, một DN tại Hà Nội đã chủ động phối hợp với Viện Cơ điện nông nghiệp và công nghệ sau thu hoạch (Bộ NN-PTNT) mời chuyên gia Israel nghiên cứu thành công công nghệ bảo quản vải Bắc Giang lên tới 35 ngày. Trong đó, thời gian vận chuyển trên biển từ VN đến bang Oregon (Mỹ) là 25 ngày, quả vải vẫn đảm bảo tươi ngon. Lô hàng thử nghiệm này, giá vải thiều VN đưa ra bán tại Mỹ giảm xuống chỉ còn hơn 200.000 đồng/kg, thấp hơn vải Mexico, mở ra cơ hội rất lớn để chúng ta tăng sản lượng vải xuất khẩu theo đường biển đến Mỹ và các thị trường khác trong những năm tới.

Theo ông Tạ Đức Minh, hiện nay cộng đồng người VN ở Nhật Bản đã có hơn nửa triệu người và người dân nước này có nhu cầu rất lớn đối với rau quả tươi, nên đây vẫn là thị trường còn rất nhiều cơ hội, tiềm năng. Đặc biệt sau đại dịch Covid-19 và suy thoái kinh tế, người dân Nhật Bản đang có xu hướng tiêu dùng nhiều hơn các sản phẩm rau củ, trái cây chế biến sẵn, tiện lợi hơn. Đây là cơ hội tốt để các DN VN nghiên cứu xuất khẩu sản phẩm chế biến. "Vấn đề cốt lõi nhất để tăng giá trị xuất khẩu rau quả vào Nhật Bản đó là DN phải kiểm soát chặt chẽ từ quy trình sản xuất không để xảy ra vi phạm về an toàn thực phẩm. Đầu tư nhiều hơn vào khâu quảng bá, xúc tiến thương mại trước mỗi mùa vụ thu hoạch. Đây là việc DN Thái Lan, Trung Quốc làm định kỳ, bài bản, giúp họ giữ được thị trường ổn định, liên tục gia tăng thị phần", ông Minh nói.

Trao đổi với Thanh Niên, ông Đặng Phúc Nguyên, Tổng thư ký Hiệp hội Rau quả VN, cho rằng nguyên nhân khiến xuất khẩu rau quả VN không bứt tốc được ở các thị trường lớn như Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản chính là những hàng rào tiêu chuẩn kỹ thuật ở mức rất cao. Rau quả VN cũng chịu sự cạnh tranh rất lớn từ các nhà cung cấp khác. Ngoài ra, các DN xuất khẩu rau quả vào những thị trường này còn dàn trải, chưa thực sự chọn được những sản phẩm cốt lõi để khai thác tối đa lợi thế sản xuất.

Cũng theo ông Đặng Phúc Nguyên, để tăng được thị phần ở các thị trường nói trên thì ngoài xuất khẩu hàng tươi, DN cần đầu tư vào công nghệ chế biến sâu, trữ được hàng xuất khẩu quanh năm, không phụ thuộc vào mùa vụ thu hoạch trái tươi. Trong 7 tháng vừa qua, giá trị xuất khẩu sản phẩm chế biến từ rau quả đạt trên 670 triệu USD, tăng trưởng hơn 20% so với cùng kỳ năm 2022. Sản phẩm chế biến từ trái cây dưới dạng nước ép, sấy dẻo… đang được xuất khẩu rất nhiều đến các thị trường khó tính.

Ông Đặng Phúc Nguyên khuyến cáo, mỗi DN nên lựa chọn thế mạnh của mình ở một vài thị trường, một số sản phẩm cốt lõi để liên kết bài bản, chặt chẽ với nông dân xây dựng các vùng nguyên liệu. "Mỗi thị trường có tiêu chuẩn khác nhau, trái cây nếu trồng xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc mà đưa đi kiểm tra thì chắc chắn chất lượng không thể đạt để xuất vào Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc hay EU. Các DN phải thay đổi, đừng đợi sắp đến mùa thu hoạch mới đi thăm vườn, ký hợp đồng gom hàng mà phải liên kết với nông dân, các nhà vườn ngay từ đầu vụ. Khi DN am hiểu thị trường có vai trò dẫn dắt, định hướng, giám sát quy trình sản xuất thì khi đó sản phẩm chắc chắn đáp ứng đúng tiêu chuẩn chất lượng, kỹ thuật của nước nhập khẩu", ông Nguyên nói. 

Ở thị trường Mỹ, trái cây có thời gian bảo quản dưới 40 ngày không đi được đường biển sẽ rất khó cạnh tranh. Trong khi đó, một số loại quả tươi như dừa, bưởi hay sản phẩm chế biến như sầu riêng bóc múi đông lạnh…, nhu cầu thị trường tiêu thụ rất lớn thì chưa có nhiều DN đầu tư bài bản, làm chuyên sâu.

Ông Đặng Phúc Nguyên, Tổng thư ký Hiệp hội Rau quả VN

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.