Việt Nam qua ghi chép người phương Tây: Uy thế của Võ vương

28/03/2017 06:05 GMT+7

Dưới thời Võ vương Nguyễn Phúc Khoát, tình hình kinh tế xã hội đã khá ổn định. Nếu năm 1698, chủ quyền đất nước chỉ mới đến vùng Gia Định, Đồng Nai thì đến cuối thập niên 50 của thế kỷ 18, ranh giới phía nam Đàng Trong đã trải dài tới vùng Cà Mau, Rạch Giá ngày nay.

Công lao khai phá của Võ vương đối với đất nước không hề nhỏ. Có một cơ ngơi ổn định, năm 1744 ông xưng vương hiệu và cải cách nhiều mặt trong đời sống cộng đồng. Đến đời chúa Nguyễn Phúc Khoát, phủ đổi thành “điện”, thân đổi thành “tấu”, thay ấn Thái phó quốc công bằng ấn “Quốc vương”, đổi chính dinh làm đô thành (đến thế kỷ 19, từ “đô thành” vẫn còn dùng để chỉ Huế, ví dụ Tập san Đô thành Hiếu cổ - Bulletin des Amis du Vieux Hue). Chỉ riêng niên hiệu thì cho đến cuối thế kỷ 18, các chúa Nguyễn vẫn dùng niên hiệu của vua Lê trong các văn bản ban hành.
Chính do những biến đổi đó trong sinh hoạt công quyền vào giữa thế kỷ 18 mà giáo sĩ Koffler kiêm y sĩ riêng của Võ vương có dịp ghi nhận nhiều sự kiện thú vị. Theo Koffler, thời ấy, chúa đã gần như vua, ai vô cớ nhìn vào mặt chúa sẽ bị khép trọng tội. Khi chúa đi ra khỏi điện, mọi người dân không được phép đi ra đường, những ngôi nhà nằm trên đường chúa đi qua phải đóng cửa lại. Trong những dịp này, quân lính cũng rất cực nhọc. Các đội lính hộ vệ phải trang bị giáo dài đi trước mở đường. Nhiều người cầm những chiếc lọng theo sau chúa, che mát chúa trong suốt cuộc hành trình. Cán lọng làm bằng ngà hay gỗ quý, chóp lọng bằng vàng, vải lọng là lụa hay vải hoa nổi. Chúa ngồi trên một chiếc ngai có 8 người lực lưỡng khiêng, đi sát cạnh ông để hộ vệ là con của những đại thần bậc nhất trong vương phủ. Vào một dịp nào đó, chúa đi thăm một người bà con lâm bệnh thì từ đó trở đi, nơi ông từng ngồi trong nhà được gia chủ xem là chốn thiêng liêng, không ai dám đến ngồi hay bước qua đó. Nhiều người treo tại chỗ ấy một tấm biển lộng lẫy đề tên chúa và mọi người trong nhà hay khách đến thăm phải tỏ lòng cung kính với tấm biển này.
Khi chúa di chuyển bằng thuyền trên sông, sự chuẩn bị và sắp xếp cũng tỉ mỉ không kém. Thành phần nòng cốt của đội thuyền rồng gồm 10 thuyền lớn, mỗi chiếc có 50 tay chèo và 25 thuyền nhỏ, mỗi chiếc 24 tay chèo. Thuyền rồng của chúa được sơn phết cực kỳ tráng lệ, nhất là ở phần mũi và đuôi thuyền. Ở phần mũi có một chiếc mái được chống đỡ bằng bốn cây cột, bên dưới đặt một khẩu súng thần công bằng đồng. Viên tướng chỉ huy đoàn thuyền đứng trên thuyền của chúa cùng một số lính trẻ. Thông thường chúa chỉ xuất hành trên sông mỗi năm một lần, chủ yếu để đích thân thu thuế, có lẽ ông sợ có sự ẩn lậu thuế nếu giao người khác làm thay mình. Mặt khác, có sự hiện diện trực tiếp của ông, các địa phương không dám bê trễ trong việc hành thu và giao nộp thuế.
Tại vương phủ, theo hồi ký của Koffler cùng một số giáo sĩ khác, điều đặc biệt là các chúa Nguyễn sử dụng nhiều người thiểu số ở Tây nguyên làm thị vệ. Có lẽ nguyên nhân của sự chọn lựa trên là những người này có sức khỏe và trung thành. Người ta dễ dàng nhận ra họ với nước da đen bóng và giọng nói không chuẩn tiếng Việt. Họ chia thành bốn đội, rất được mọi người nể nang, kể cả các vương thân và đại thần trong vương phủ. Việc bảo vệ bên ngoài vương phủ được giao cho 25 đội lính luân phiên nhau canh gác ngày đêm, nếu tính cả thủy binh, tượng binh, kỵ binh thì quân số Đàng Trong thời bấy giờ vào khoảng 20.000 người.
Xem như thế, có thể thấy là đến nửa đầu thế kỷ 18, sinh hoạt tại vương phủ và đời sống xã hội ở Đàng Trong đã có quy củ, nền nếp. Quan chế vì thế cũng có những cải tiến cho phù hợp với nhu cầu của một xã hội ngày một phát triển. Quan lại hàng nhất phẩm thường do các vương thân (chú bác hay anh em chúa Nguyễn) nắm giữ. Bốn viên quan lớn nhất gọi là Tứ trụ gồm nội tả, nội hữu, ngoại tả, ngoại hữu, hai người được tin dùng hơn cả trong số này được chúa giao điều khiển công việc ở trấn đô thành, nơi chúa ngự. Hai người còn lại đặc trách việc giám sát công việc các trấn khác.
Điều đáng lưu ý là vào thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, hàng ngũ hoạn quan rất được sủng ái. Ở Đàng Ngoài, viên tổng thái giám xếp hàng chánh tam phẩm, ngang với Đô Ngự sử, chỉ đứng sau Thượng thư (tòng nhị phẩm). Hoạn quan ở Đàng Trong cũng được sủng ái như vậy. Phẩm trật đã thế, thực quyền của họ còn quan trọng hơn. Tại vương phủ, có ba thái giám quyền uy cao nhất. Trước hết, viên tổng thái giám giữ quyền quản lý ngân khố, thanh toán các khoản chi của vương phủ, phủ Tôn nhơn và của các phi tần. Hai thái giám khác phụ trách việc thương mại và chỉ có họ mới được bán cho người nước ngoài những mặt hàng quan trọng như vàng, sắt, ngà voi…
Bất bình về cách ăn mặc của phụ nữ phương Tây
Thế kỷ thứ 18 đã có sự qua lại bước đầu của hai nền văn hóa phương Đông và phương Tây, thông qua trung gian là tầng lớp thương nhân và giáo sĩ. Koffler kể rằng có lần Võ vương thấy hình vẽ phụ nữ châu Âu mặc áo hở vai, chúa đã nhăn mặt quay đi và tỏ vẻ bất bình về cách ăn mặc “lõa lồ” đó.
Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.