Tam Hải ký sự: Đảo thiêng của cá ông

25/09/2015 06:07 GMT+7

Hòn đảo nhỏ Tam Hải (H.Núi Thành, Quảng Nam) không chỉ có cảnh quan thiên nhiên với vẻ đẹp nguyên sơ hiếm có mà còn mang trong mình nhiều câu chuyện về văn hóa, phong tục thú vị.

Hòn đảo nhỏ Tam Hải (H.Núi Thành, Quảng Nam) không chỉ có cảnh quan thiên nhiên với vẻ đẹp nguyên sơ hiếm có mà còn mang trong mình nhiều câu chuyện về văn hóa, phong tục thú vị.

Lễ cúng cá ông hằng năm vào ngày 20 tháng giêng - Ảnh: Hoàng SơnLễ cúng cá ông hằng năm vào ngày 20 tháng giêng - Ảnh: Hoàng Sơn

Thiên nhiên kiến tạo nên Tam Hải với bốn bề sóng nước, ưu ái cho mảnh đất này những bãi cát dài mịn màng, cảnh quan đẹp kỳ vĩ chẳng kém những thắng cảnh du lịch nổi tiếng trên cả nước. Có ví von Tam Hải như một “hòn ngọc xanh” chưa được mài dũa cũng không hề quá.

Khen ai khéo dựng Bàn Than
Ai thấy cá ông dạt vào đầu tiên thì người đó trở thành “trưởng nam” của “ông”,  đứng ra lo hậu sự và chít khăn, thậm chí kiêng cữ một số điều như chính để tang cho cha mẹ mình
 
Khách thập phương đến Tam Hải thường tìm đến núi Bàn Than để chiêm ngưỡng cảnh đẹp hùng vĩ của khối núi này. Khối núi đã đi vào một bài thơ Nôm khuyết danh được người dân nơi đây lưu truyền: “Khen ai khéo dựng núi Bàn Than/Dãi gió dầm mưa với thế gian...”.
Sách lịch sử địa phương Tam Hải giới thiệu rằng, hòn đảo do phần lớn đất cát từ sông và biển bồi đắp mà thành. Do hứng chịu những trận gió biển thường xuyên mà hình thành nên nhiều gò, đồi cát ven biển. Đặc biệt núi Bàn Than qua quá trình kiến tạo, xâm thực của sóng biển trở thành nét đẹp riêng của địa phương. Cuốn Di tích và danh thắng xứ Quảng (in năm 2010) dẫn tư liệu từ sách Đại Nam nhất thống chí như sau: “Núi Phú Xuân còn có tên là núi Bàn Than nằm kề cửa biển Đại Áp; mạch núi nguyên từ núi Chủ Sơn kéo về chia ra, quanh co qua các xã Hòa Vấn và Phú Hòa đến thôn Phú Xuân Hạ thì nổi lên một ngọn lớn mà tròn, sắc đen như than, đứng xa thấy đỉnh như một cái mâm than nên gọi tên như thế”.
Cái tên Bàn Than cũng có nhiều giả thuyết với những tên gọi khác nhau nhưng đa phần nghiêng về lý giải theo cách nhìn trực quan với đỉnh núi bằng phẳng tựa mặt bàn. Cấu tạo địa chất của hòn núi cũng lạ với phần đá ong và đất đỏ áp sát đất liền và phần đá đen tại vùng tiếp xúc sóng biển.
Nơi yên nghỉ của hơn 500 “ông”
Có lẽ không nơi nào dọc dải miền Trung có được một nơi chôn cất cá ông quy mô và bài bản như ở thôn Thuận An, đến mức người dân địa phương lập riêng thành một khu đất mà họ gọi đó là nghĩa địa. “Một điều lạ là dọc bờ biển Quảng Nam có rất nhiều làng chài nhưng cứ mỗi lần lụy bờ dường như “ông” chỉ muốn vào mảnh đất quê hương chúng tôi. Tục an táng cá ông cứ thế nối tiếp hàng trăm năm qua”, ông Nguyễn Hữu Khoa, Bí thư Chi bộ thôn nói.
Công trạng cứu người của cá ông được nhiều người dân Tam Hải lưu truyền. Đặc biệt có cả chuyện cá ông vùng Tam Hải được một vị vua nhà Nguyễn ban sắc phong vì có công cứu vua thoát nạn.
Cụ Trần Toàn (88 tuổi) chậm rãi kể: “Chuyện rằng, năm đó có một vị vua vào chi viện cho quân mình đang bị quân địch vây hãm ở phía nam thì hết nước ngọt để uống. Khi đi ngang qua đảo Tam Hải, nhà vua đã khấn cầu cá ông hiển linh để xin nước uống. Đoạn các tàu thả vòng dây xuống biển thì được cá ông phun nước ngọt vào để cả vua lẫn binh lính sử dụng. Từ đó, vị vua ghi ân cá ông rồi ban tước phong mà ngày nay trong văn tế vẫn còn nhắc đến. Đó là “Trừng trạm dực bảo trung hưng tôn thần” và “Đông Hải cự tộc ngọc long chư vị”. Hàng trăm năm qua, làng chài này đã chôn cất ít nhất 500 cá ông và khi lụy bờ tuyệt nhiên các “ông” chỉ tìm vào bãi Bấc.
Tuy không có quy định nào buộc người phát hiện cá ông lụy bờ phải chịu tang nhưng theo tập tục, người Tam Hải luôn xem đó là “điều luật” bất thành văn và không ai nề hà. Ai thấy cá ông dạt vào đầu tiên thì người đó trở thành “trưởng nam” của “ông”, đứng ra lo hậu sự và chít khăn, thậm chí kiêng cữ một số điều như chính để tang cho cha mẹ mình. Đối với người dân xã đảo, “thấy ông vào làng như vàng vào tủ” và chắc chắn sẽ đem lại điềm lành, tôm cá đầy khoang.
Theo nhiều người, tại Tam Hải từng ghi nhận cá voi lớn nhất dạt vào bờ nặng đến hàng chục tấn, chiều dài thân lên đến 30 m. Hàng trăm người dân tìm cách đưa “ông” trở lại đại dương nhưng bất thành. Vì không thể đem vào bờ làm lễ táng nên người dân đã dùng tre đan thành cỗ quan bao bọc cá ông lại. Đến hơn một năm sau, khi chỉ còn lại khung xương, người xã đảo mới đem vào nghĩa trang cải táng. Khi chôn cất, mộ của cá ông thường được đặt thêm 2 viên đá tổ ong ở 2 đầu như tấm bia trên mộ phần có hình chữ nhật. “Cá ông nặng vài tấn nhiều kể không xuể. Còn cá ông nặng hàng chục tấn thì chỉ đếm trên đầu ngón tay. Có thời điểm những bộ xương cá ông cỡ lớn đã nằm vào tầm ngắm của một số tay buôn hàng hiếm”, ông Khoa tiết lộ thông tin về một vụ trộm xương cá ông cách đây mấy chục năm: “Có người định đào mộ để lấy xương cá ông đem bán cho một đại gia trưng bày làm cảnh hay phục vụ tham quan gì đó. Nhưng may mắn người dân phát hiện kịp thời nên đã ngăn chặn. Sau đó, chúng tôi đã tổ chức nhiều cách để bảo vệ những bộ cốt được an toàn”.
Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.