Những chí sĩ tham gia Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: Linh mục Phạm Bá Trực - 'một nhà tận tụy ái quốc'

09/09/2015 05:47 GMT+7

Đó là đánh giá của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong điếu văn linh mục Phạm Bá Trực.

Đó là đánh giá của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong điếu văn linh mục Phạm Bá Trực.

Những chí sĩ tham gia Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: Linh mục Phạm Bá Trực - 'một nhà tận tụy ái quốc'Linh mục Phạm Bá Trực tại Đại hội thống nhất Mặt trận Việt Minh - Liên Việt (3.1951) - Ảnh: Tư liệu
“Đứng trước Chúa, không có sự phân biệt màu da”
“Thế còn linh mục Phạm Bá Trực?” - thủ đô Tân Trào những ngày trước Tổng khởi nghĩa, nghe Ông Cụ hỏi, ông Vũ Đình Huỳnh, một nhà hoạt động lâu năm có uy tín lớn trong giới trí thức, báo cáo để Hồ Chủ tịch rõ:
Linh mục Phạm Bá Trực sinh năm 1898 tại Bách Nguyên, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Linh mục là một trong những khuôn mặt nổi bật nhất, nổi tiếng là một người yêu nước chống Pháp kiên quyết nhất.
Những năm đầu 1930, sau khi học xong tại Roma, đã đậu bằng tiến sĩ triết học và thần học, trở về nước, linh mục càng thấy rõ hơn ai hết, những cảnh bất công đồng bào mình cũng như cả Giáo hội VN phải chịu. Ai cũng nghĩ Phạm Bá Trực sẽ được phong giám mục, vậy mà giáo chức người Pháp lại đưa về thị xã Hà Đông giữ một xứ đạo nhỏ, chỉ vì Phạm Bá Trực bướng bỉnh chống lại những lề thói phân biệt đối xử giữa các linh mục Tây và VN. Thấy cố đạo Tây lộng hành, cha mắng. Thấy linh mục người Việt không được phép ăn chung với linh mục Tây, cha chống. Linh mục Phạm Bá Trực chống cả việc linh mục Tây vào gặp giám mục thì bắt tay mà linh mục ta thì phải tụt giày, vái lễ.
Linh mục Phạm Bá Trực có câu nói nổi tiếng: “Đứng trước Chúa, không có sự phân biệt màu da”.
Cách mạng Tháng 8 năm 1945 thành công, cuộc Tổng tuyển cử ngày 6.1.1946 bầu cử đại biểu Quốc hội lập hiến đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Linh mục Phạm Bá Trực trúng cử đại biểu Quốc hội tỉnh Hà Nam, được cử vào Ban Thường trực rồi Phó trưởng ban Thường trực Quốc hội.
“Vua Hùng kén rể”
Phiên họp “tất niên” của Hội đồng Chính phủ mừng chiến thắng thu đông 1947 đồng thời vui tết đón xuân Mậu Tý (1948) diễn ra giữa núi rừng Việt Bắc khi rét đậm tràn về. Các thành viên Chính phủ đều có mặt đông đủ, trừ ông Đặng Phúc Thông vì ốm, còn các cụ Bùi Bằng Đoàn - Trưởng ban, Linh mục Phạm Bá Trực - Phó trưởng ban Thường trực Quốc hội... là những người tiêu biểu cho khối đại đoàn kết của dân tộc, dù tuổi già sức yếu đều tới dự. Có chiến sĩ, có quan thượng thư, có đức linh mục, có trí thức, có Việt Minh, những người tóc đã bạc bên những người mái đầu xanh tuổi mới ba mươi... Tất cả cùng chung một ý chí “Tổ quốc trên hết, Kháng chiến trước hết”.
Cuối buổi, anh em phục vụ bưng lên mấy đĩa cam sành Bố Hạ vàng mọng của Đặc ủy đoàn do Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Đình Hòe mua về đãi quà tết. Hội đồng Chính phủ vừa ăn cam vừa nghĩ về việc đóng góp một trò vui để cùng ăn tết thật vui vẻ. Hồ Chủ tịch giới thiệu cụ Bùi Bằng Đoàn sẽ mở đầu cuộc vui xuân mừng chiến thắng... Sau đó là màn diễn Vua Hùng kén rể.
Diễn viên đầu tiên vở kịch Vua Hùng kén rể bước lên sân khấu trong tiếng hò la và vỗ tay rầm rộ của khán giả. Phó trưởng ban Thường trực Quốc hội, linh mục Phạm Bá Trực, vai vua Hùng lụng thụng trong chiếc áo dạ to xù của lính Pháp mà quân nhu mới cấp, và chiếc mũ dạ to tướng thường ngày để thay mũ bình thiên. Tiếp đó là Sơn Tinh - Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Đình Hòe đóng vai - nhảy ra múa mấy vòng, rồi khuỳnh khuỳnh tay tâu với vua Hùng về chiến công đuổi được Thủy Tinh ra tận ngoài biển.
“Vua Hùng” vểnh râu lên, khoái trá vuốt, rồi gọi to: “Bớ Mỵ Nương! Con gái ta, mau mau ra mắt...”. Lời vừa dứt, công chúa choàng chiếc áo ca pốt cũ của lính lê dương yểu điệu, da trắng nõn, đôi bờ vai hơi rộng, ra trình vua cha. Khán giả cười lăn, cười bò vì công chúa có râu lún phún đó là luật sư Phan Anh, Bộ trưởng Bộ Kinh tế. Vua cha, chàng rể, công chúa cùng nhau ôm bụng cười...
Cụ Bùi Bằng Đoàn, trưởng ban ôm chặt lấy cụ linh mục phó ban của mình, đấm thùm thụp vào lưng và nói: “Giỏi quá! Giỏi quá! Thật là vui như tết, vui hơn tết!”.
Bài điếu văn do Bác Hồ viết
Hiệp định Genève ký kết, miền Bắc được giải phóng, Chính phủ sắp trở về thủ đô. Nhưng bị cuộc sống vất vả trong chiến khu vắt kiệt sức, linh mục Phạm Bá Trực đã tạ thế hồi 12 giờ 55 phút ngày 5.10.1954, hưởng thọ 56 tuổi.
Hồ Chủ tịch thức trắng đêm, từng dòng lệ rơi trên trang giấy đọng lại trong lời ai điếu. Viết xong điếu văn, không thể đến nổi nơi hành tang linh mục Phạm Bá Trực, Hồ Chủ tịch dặn ông Vũ Đình Huỳnh, Bí thư riêng của Người và là Vụ trưởng Vụ Lễ tân - Bộ Ngoại giao: “Chú vốn là đạo hữu của cụ linh mục. Chú thay mặt tôi đặt vòng hoa lên mộ phần cụ...”.
Hồi 9 giờ 30 ngày 7.10.1954, lễ an táng linh mục Phạm Bá Trực được tổ chức tại nhà thờ An Huy, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi vòng hoa viếng kèm lời điếu. Bộ trưởng Phan Anh thay mặt Hồ Chủ tịch đọc điếu văn:
“Tôi xin thay mặt Chính phủ kính cẩn nghiêng mình trước linh hồn Cụ. Từ ngày nhân dân tin cậy cử Cụ làm đại biểu Quốc hội và Quốc hội cử Cụ vào Ban thường trực, Cụ đã đưa hết tinh thần và lực lượng giúp Chính phủ trong mọi vấn đề quan trọng. Trong mọi việc, Cụ đã kết hợp đạo đức bác ái theo lời Chúa dạy, với tinh thần nồng nàn yêu nước của người đại biểu chân chính cho nhân dân Việt Nam.
Nay Cụ mất đi, Chính phủ và nhân dân vô cùng thương xót.
Trong lúc ốm nặng Cụ thường nói với tôi: Mong trông thấy kháng chiến thắng lợi thì dù chết Cụ cũng thỏa lòng.
Nay hòa bình đã trở lại Cụ đã thỏa lòng.
Nhưng tiếc rằng Cụ không còn nữa để giúp nước, giúp dân. Với lòng vô cùng thương tiếc một nhà tận tụy ái quốc và một người bạn thân mến, trước linh hồn Cụ, chúng tôi nguyện kiên quyết một lòng, đoàn kết toàn dân để làm tròn sự nghiệp mà suốt đời Cụ mong muốn là: củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ trong toàn nước Việt Nam yêu quý của chúng ta.
Hồ Chí Minh”.
Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.