Lắt léo chữ nghĩa: Gốc Hán của giường chiếu, chăn màn là gì?

01/11/2020 07:17 GMT+7

Giường là một từ Việt gốc Hán, bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ [牀], mà âm “Hán Việt” là sàng, có nghĩa là... “giường”, như trong bài Tĩnh dạ tứ của Lý Bạch:

Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương
Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương.
Tạm dịch:
Đầu giường trăng rọi sáng
Ngỡ là sương phủ đầy
Ngẩng đầu nhìn trăng tỏa
Cúi đầu thương nhớ quê.
Thực ra, âm gốc của chữ [牀] lại là sường vì nó thuộc vận mục dương [陽], cũng là vận mục đứng đầu vận bộ dương [陽], gồm có bốn vận mục thuộc bốn thanh bình, thượng, khứ, nhập là dương [陽], dưỡng [養], dượng, thường đọc thành dạng [瀁], và dược [藥]. Một số chữ thuộc vận bộ dương, lẽ ra phải đọc theo vần ƯƠNG, thì cũng đã đọc theo vần ANG tự bao giờ: thang [湯], trang [妝,莊,裝], sảng [爽], sáng [創], vãng [彺], tráng [壯], trạng [狀]. Trong thực tế của tiếng Việt, một số chữ thuộc vận bộ dương [陽] còn có thể đọc theo hai âm: lượng [两], 1/10 cân, ngoài Bắc nói lạng, trong Nam nói lượng; trương [張] thành trang; trường [長], như trong súng trường, thành tràng, như trong tràng giang đại hải... Ngoài ra, còn có hiện tượng hài thanh ANG bằng ƯƠNG, như lương [良] hài thanh cho lang [郎]. Vậy không phải chuyện lạ nếu âm gốc của chữ sàng [牀] lại là sường nên giữa sường và giường chỉ có sự khác nhau về phụ âm đầu S ≠ GI mà thôi. Nhưng tương quan lịch sử giữa hai phụ âm này còn có thể thấy ở các trường hợp: - sại, thường đọc thành trại [砦], hàng rào ↔ giại trong phên giại; - sạn [棧], đường xếp bằng gỗ làm cầu treo ↔ giàn trong giàn bầu, giàn khoan; - sáo [槊 hoặc 矟] trong Đoạt sáo Chương Dương độ ↔ giáo trong gươm giáo; - sát [殺] trong tàn sát ↔ giết trong giết chóc; - sẩm [醦], giấm ↔ giấm trong giấm chua; - sế [㡜], vải vụn ↔ giẻ trong giẻ rách; - sồ [雛], chim non ↔ giò trong gà giò; - sồ [䅳], cọng lúa ↔ giò, thường viết dò, trong giò phong lan, giò thủy tiên.
Chiếu bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ [𤕷], mà âm Hán Việt là triệu, có nghĩa là “lạch giường, giát giường”. Tiếng Hán có hai từ quen thuộc chỉ khái niệm “chiếu” trong “giường chiếu” là tịch [席] và diên [筵]. Nhưng về từ nguyên thì chiếu lại bắt nguồn từ triệu [𤕷]. Tương quan ngữ âm giữa TR và CH thì ta có nhiều dẫn chứng: trà ↔ chè; trảm ↔ chém; trạo ↔ chèo; trai trong trai giới ↔ chay trong ăn chay; trảo [爪] ↔ chấu; triều trong triều kiến ↔ chầu trong chầu rìa...
Chăn (như trong câu Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng) bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ [氊, cũng viết 毡], mà âm Hán Việt là chiên, có nghĩa là “vải nhồi từ lông thú mà ra, dạ; chăn, mền”, thường được dịch sang tiếng Anh là “felt”. Về tương quan IÊN ↔ ĂN giữa chiên và chăn, ta còn có: - hiển [顯], rõ rệt ↔ hẳn trong hẳn hoi; - niễn [撚], sờ nắn, vuốt ↔ nắn trong nắn nót, nặn trong nặn nọt; - yến [嚥, cũng viết 咽], nuốt thức ăn ↔ ăn trong ăn uống.
Cuối cùng, màn là âm xưa của chữ [幔], mà âm Hán Việt hiện hành là mạn, có nghĩa là “màn”.
Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.