Lắt léo chữ nghĩa: Báo cô & bảo kê

20/01/2019 06:51 GMT+7

Từ điển tiếng Việt của Trung tâm từ điển học (Vietlex) do Hoàng Phê chủ biên đã ghi nhận mục báo cô nhưng chỉ ghi chú chữ Hán cho mục này là [報辜] chứ không giảng mà lại chuyển chú đến mục ăn báo cô .

 Còn ăn báo cô thì được giảng là “ăn hại, ăn bám người khác mà chẳng giúp ích được gì”.
Dĩ nhiên là cái nghĩa này đã được giảng đúng, nhưng đây chỉ là nghĩa hiện hành, có phần ngược với nghĩa gốc là đằng khác.
Báo côbảo cô bị nói trại đi còn bảo cô [保辜] là hai chữ Hán dùng để chỉ một điều luật thời xưa của Trung Quốc, đại khái là kẻ hành hung gây thương tích cho người bị hại phải nuôi người này trong một thời gian quy định rồi tùy theo mức độ hồi phục của nạn nhân mà xử tội, nếu chưa đến kỳ hạn mà nạn nhân tử vong thì kẻ gây án sẽ bị kết tội sát nhân. Bảo [保] có nghĩa là “giữ gìn; nuôi dưỡng; nhận lấy trách nhiệm” còn [辜] là “tội lỗi” cho nên bảo cô có nghĩa gốc là “tội phải nhận nuôi dưỡng [ai đó]”.
Bảo cô đã bị từ nguyên dân gian thay thanh đổi nghĩa thành báo cô mà hiểu báo như trong báo cơm, báo đời, báo hại. Nhưng với sự lệch thanh lạc nghĩa này, hai tiếng báo cô đã được thói quen ngôn ngữ “bảo kê” để ngang nhiên tồn tại. Với cái nghĩa này, nó đã được tác giả của mục từ hữu quan trong Từ điển tiếng Việt chú thích bằng hai chữ Hán [報辜] nhưng đây là một việc làm sai trái vì [報辜] chẳng những không phải là một từ tổ cố định của tiếng Hán mà cũng không thấy xuất hiện trong lời ăn tiếng nói của dân Trung Quốc.
Bảo [保] trong bảo cô [保辜] có một điệp thức quen thuộc và thông dụng là bầu, như trong: - bầu cử < bảo cử, có nghĩa là đề cử một người mà mình tin ở năng lực vào một chức vụ nhất định và chịu trách nhiệm về sự đề cử đó; - ông/bà bầu < bầu chủ, có nghĩa là người chịu trách nhiệm bảo lãnh cho một người nào đó. Bảo chủ còn có một danh ngữ đồng nghĩa là bảo gia [保家], mà âm Triều Châu (Trung Quốc) là pổ kê. Âm này đã đi vào tiếng Việt miền Nam (miền Tây Nam bộ có rất nhiều người gốc Triều Châu sinh sống) thành bảo kê, vốn có sắc thái trung hòa nhưng nay lại thông dụng với sắc thái xấu nghĩa (pejorative) để chỉ hành động bảo vệ hoặc dung túng cho những hoạt động bất hợp pháp. Tầm-nguyên tự-điển Việt-Nam của Lê-Ngọc-Trụ (NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1993, ảnh) ghi âm Triều Châu của hai chữ [保家] theo chữ quốc ngữ là “bo kê” (tr. 470) nhưng phương ngữ này của tiếng Hán chỉ có P chứ không có B.
Còn chữ báo [報] trong báo cô [報辜] của Từ điển tiếng Việt thì có nghĩa là nói cho biết, kể lại cho biết (bên cạnh những nghĩa khác). Với cái nghĩa này, nó đã được tập quán ngôn ngữ của người Việt biến đổi từ thanh điệu 5 (dấu sắc) sang thanh điệu 4 (dấu hỏi) thành bảo, như trong bảo ban, dạy bảo... Bảo có một điệp thức là biểu, thông dụng trong tiếng Việt miền Nam.
Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.