Vụ vợ bị đơn đòi nhảy lầu: Giám đốc thẩm hủy 2 bản án

Phan Thương
Phan Thương
25/07/2020 06:31 GMT+7

Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao tại TP.HCM chấp nhận toàn bộ kháng nghị của Chánh án TAND cấp cao tại TP.HCM, tuyên hủy toàn bộ bản án phúc thẩm và sơ thẩm vụ tranh chấp dân sự 674 m 2 đất tại Q.Gò Vấp.

Chiều 24.7, Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao tại TP.HCM xét xử giám đốc thẩm đã chấp nhận toàn bộ kháng nghị của Chánh án TAND cấp cao tại TP.HCM, tuyên hủy toàn bộ bản án phúc thẩm và sơ thẩm đối với tranh chấp dân sự 674 m2 đất tại Q.Gò Vấp (TP.HCM) giữa nguyên đơn là vợ chồng ông Phan Quý và 3 bị đơn Lê Văn Dư, Lê Sĩ Thắng, Khâu Văn Sĩ, giao hồ sơ cho TAND Q.Gò Vấp xét xử lại.
Trước đó, chiều 15.7, Chánh án TAND cấp cao tại TP.HCM đã ký quyết định kháng nghị giám đốc thẩm đối với vụ án. Theo kháng nghị, về xác định quan hệ tranh chấp, các đương sự đều thừa nhận 674 m2 đất trước đây thuộc quyền sử dụng của vợ chồng ông Phan Quý. Sau đó, nguyên đơn lần lượt lập các hợp đồng bằng giấy tay chuyển nhượng cho 3 bị đơn và đã nhận đủ tiền chuyển nhượng theo thỏa thuận.
Vì cho rằng 3 bị đơn vi phạm thỏa thuận nên nguyên đơn khởi kiện yêu cầu tòa tuyên bố các giao dịch này chưa có hiệu lực và trả lại toàn bộ diện tích đất cho nguyên đơn. Tuy nhiên, bị đơn trình bày, việc chuyển nhượng giữa các bên đã hoàn thành nên có yêu cầu phản tố yêu cầu tòa công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (QSDĐ) giữa các bên. Vì vậy, cần xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án là “tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ” như tòa sơ thẩm tuyên. Cấp phúc thẩm xác định quan hệ pháp luật “tranh chấp QSDĐ” là không phản ánh đúng bản chất.
Về thời hiệu khởi kiện, theo kháng nghị giám đốc thẩm, hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ vào năm 2002 và 2009 đều vi phạm điều cấm của pháp luật khi: người chuyển nhượng là ông Quý thời điểm năm 2002 chưa có QSDĐ; diện tích đất chuyển nhượng cho ông Dư, ông Thắng (87 m2/người) không đảm bảo điều kiện tách thửa; thủ tục chuyển nhượng bằng giấy tay, không có công chứng, chứng thực của cơ quan có thẩm quyền. Theo quy định tại khoản 3 điều 132 bộ luật Dân sự năm 2015 thì thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu trong trường hợp này không bị hạn chế.
Ngoài ra, kháng nghị cũng phân tích thời điểm chuyển nhượng, các bên vi phạm một số điều cấm của pháp luật, nhưng theo Nghị quyết 02/2004 của HĐTP TAND tối cao, thì hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ không coi là vô hiệu do vi phạm điều kiện chưa có quyền sử dụng đất hợp pháp và hợp đồng chuyển nhượng không có công chứng, chứng thực của cơ quan có thẩm quyền; mặt khác toàn bộ 674 m2 đất tranh chấp các bị đơn đều đã chuyển nhượng cho ông Dư, nên không vi phạm điều kiện tách thửa theo QĐ 190/2009 của UBND TP.HCM.
Hơn nữa, các bên phát sinh tranh chấp nhưng thực tế bị đơn đã nhận đất và sử dụng từ lâu, nguyên đơn đã nhận đủ tiền. Vì vậy cần áp dụng khoản 2 điều 129 bộ luật Dân sự năm 2015, rằng giao dịch dân sự có vi phạm bắt buộc về công chứng, chứng thực nhưng đã thực hiện 2/3 nghĩa vụ trong giao dịch thì tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực...
Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.