Người lính già trên đỉnh Ngải Chồ

Mai Thanh Hải
Mai Thanh Hải
16/02/2020 09:00 GMT+7

Ngày 20.12.1979, binh nhất Vàng A Sình được Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng ký phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang.

Chạy xe 40 km từ TP.Lai Châu lên xã Phìn Hồ (H.Sìn Hồ, Lai Châu), đi bộ gần tiếng nữa lên bản Ngải Chồ hỏi nhà Anh hùng lực lượng vũ trang Vàng A Sình, người H'Mông ai cũng hớn hở: “Bản này giờ có đường bê tông đi, ống dẫn nước uống, cũng là nhờ già Sình”.
Nhà của ông Sình vách gỗ cũ kỹ, mái lợp fibro xi măng bám đầy rêu xanh. Gập lưng để chui vào gian giữa tối om, mãi mới nhìn thấy bao nhiêu bằng khen, giấy khen treo tràn trên vách. Người anh hùng lực lượng vũ trang (AHLLVT) dáng thỏ thó, da đen sạm cười ngượng nghịu: “Vừa đi nương về, chưa kịp dọn nhà”, và rồi ông ôm chồng ghế gỗ bày ra góc sân: “Nhà không có bóng điện thắp sáng, chúng mình ngồi ngoài sân nói chuyện đi”...

Vừa nấu cơm vừa bắn súng

Ngải Chồ nằm trên đỉnh núi cao gần 1.500 m thuộc dãy núi Pu Sam Cáp. Bao đời, người H’Mông ở Ngải Chồ đeo bám núi để sống, hiếm lắm mới cắt rừng đi bộ cả ngày đường xuống Huổi Luông đổi muối, nên ai cũng quắt lại. Tháng 10.1976, Vàng A Sình 19 tuổi mới được đi bộ đội. Đấy là năn nỉ mãi, bởi Sình lúc ấy chỉ 39 kg và cũng bởi bao nhiêu năm, bản người Mông này chưa có ai nhập ngũ.
Sau thời gian huấn luyện tân binh, Vàng A Sình được đưa về Đại đội 18, bộ đội địa phương H.Sìn Hồ, đóng quân tại bản Pô Tô (xã Huổi Luông). Chỉ huy đơn vị đi vòng quanh Sình mấy vòng, thở dài “người gì mà bé tí” và đưa cậu vào bộ phận hậu cần, giao việc nấu cơm. Gần 2 năm liền nấu nướng, nhặt rau và... đi chợ, mãi đến cuối 1978, khi tình hình biên giới Việt - Trung căng thẳng, Sình gặp chỉ huy, nói thẳng: “Cán bộ cho mình ra biên giới làm việc gì cũng được”. Thế là Sình được ra biên giới Ma Lù Thàng, nấu cơm cho bộ đội trên các điểm cao.
4 giờ sáng 17.2.1979, pháo binh phía bên kia biên giới ầm ầm đổ đạn bắn phá các trận địa của bộ đội VN và các bản làng, cơ sở dọc biên giới. Điểm chốt của Đại đội 18 nằm ngay đầu cầu Hữu Nghị, cạnh sông Nậm Na bị bắn phá dữ dội khiến đơn vị thương vong nặng, hầm hào công sự bị phá tan hoang. Hết pháo, lính Trung Quốc chen nhau xông lên đen đặc. Binh nhất Vàng A Sình lúc này vừa gánh cơm lên trận địa, lao ra nhặt khẩu B41 của đồng đội hy sinh định bắn trả, thì Đại đội trưởng Bùi Xuân Nhâm cản vì “thấp bé vậy, sao bắn được” và lệnh cho Sình lắp đạn để bộ đội chiến đấu. Bắn hết đạn, Sình bò về hầm vũ khí đại đội kéo cả hòm lựu đạn ra công sự đánh trả địch.
Buổi chiều 17.2.1979, binh nhất Vàng A Sình tập hợp được 3 chiến sĩ còn sống ở trận địa và dùng lựu đạn đánh chặn cho đồng đội rút. Hết đạn, ông lao mình xuống vách đá, quyết không để đối phương bắt sống. May mắn, ông mắc vào cành cây. Cả đêm ấy, ông tìm đường về hậu cứ. “Đại đội có 75 người, chỉ 15 người còn sống tìm được đường về”, AHLLVT Vàng A Sình lau nước mắt.
Người lính già trên đỉnh Ngải Chồ1

Ông Vàng A Sình vừa đi làm nương về và ngồi lau bằng chứng nhận anh hùng

Ảnh: M.T.H

Bé hạt tiêu

Tháng 3.1979, khi đang đào công sự ở H.Phong Thổ (Lai Châu) thì binh nhất Vàng A Sình được gọi về Hà Nội báo cáo kết quả chiến đấu với thủ trưởng Bộ Quốc phòng. Cứ tưởng xong sẽ được về, nhưng ông lại được đưa sang Gia Lâm, lên máy bay tới Điện Biên và đằng đẵng mấy ngày trời ngồi xe U-oát qua cửa khẩu Tây Trang sang nước bạn Lào. “Mình và 8 anh em dũng sĩ khác sang đấy nói chuyện, phổ biến kinh nghiệm chiến đấu cho bộ đội Lào, không phải đi chơi đâu”, ông Sình cười, bảo vậy.
Một tháng trời đi khắp các đơn vị quân đội Lào, câu chuyện “phòng ngự - tiêu diệt địch trong điều kiện hầm hào công sự bị phá hủy” của binh nhất Vàng A Sình được quan tâm đặc biệt và tất nhiên, phải diễn đi diễn lại khiến ông nhăn nhó: “Lúc ấy hăng lên ném được cả trăm quả lựu đạn, giờ làm khó quá”.
Ngày 20.12.1979, binh nhất Vàng A Sình được Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng ký phong tặng danh hiệu AHLLVT. Từ Mường Lay, ông phải đi bộ 4 ngày về TX.Điện Biên Phủ dự đại hội mừng công của tỉnh Lai Châu. Khi nghe xướng tên được phong anh hùng, ông không tin đó là mình, khiến cấp trên phải xuống kéo lên. Giữa các tướng lĩnh sĩ quan và dũng sĩ, binh nhất Vàng A Sình chỉ cao đến gần vai mọi người khiến ai cũng ngạc nhiên “thiếu niên mà đã đi bộ đội?”. Thế nhưng, nghe thành tích và câu chuyện của ông, hết thảy mọi người xúm lại trầm trồ: “Nuôi quân mà đánh giặc giỏi. Bé này là bé hạt tiêu”...
Người lính già trên đỉnh Ngải Chồ2

Ông Vàng A Sình kể chuyện chiến đấu với người vợ Thao Thị Rùa

Ảnh: M.T.H

Đi khắp bản làng

Được phong AHLLVT nhưng vẫn mù chữ nên đầu năm 1980, binh nhất Vàng A Sình phải khoác ba lô sang Yên Bái học “abc” từ đầu tại trường văn hóa của Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Hoàng Liên Sơn (nay là Yên Bái và Lào Cai). Tháng 9.1980, ông được phong hàm vượt cấp từ binh nhất lên chuẩn úy. Năm 1983, Ban Chỉ huy quân sự H.Sìn Hồ xin ông Sình về công tác bởi không có cán bộ người H'Mông. Giữa năm 1983, ông chuyển về H.Sìn Hồ, ngày thì làm trợ lý động viên tuyển quân của ban chỉ huy quân sự huyện, tối tiếp tục cắp sách tới lớp bổ túc văn hóa. Tháng 5.1983, ông được phong hàm trung úy.
Sìn Hồ những năm 80 của thế kỷ trước đi lại chỉ bằng đôi chân và vó ngựa, nên nhiệm vụ động viên tuyển quân của trung úy Sình khó nhiều bề. 21 xã trong huyện hoặc mãi trên đỉnh núi như Phăng Xô Lin, chui giữa rừng già như Nậm Cuổi hoặc tít tắp bờ sông Đà như Nậm Mạ, chỗ nào ông cũng đặt chân đến từng thôn bản. Mỗi chuyến công tác dằng dặc cả tháng. Xong công tác là phải đến lớp học bù chương trình bổ túc văn hóa lớp 6...

Vượt qua đói nghèo

Năm 1981, ông Vàng A Sình lấy vợ là Vương Thị Dóa và được bố mẹ cho mảnh đất nhỏ, tự chặt cây làm cột, cắt tranh làm nhà. Dựng xong căn nhà bé như cái chòi canh nương cho vợ ở xong, ông lại khoác ba lô đi học văn hóa, để lại cô vợ trẻ đêm nào cũng khóc vì sợ... nhà đổ. Năm 1983, vợ chồng ông đã có 2 đứa con, càng khó khăn do ruộng ít, không người làm, mỗi ngày chỉ 2 bữa sắn ngô cầm hơi, nên ông xin bố mẹ cho vợ con về ở chung để mình yên tâm đi công tác tuyển quân các xã.
Đầu tháng 6.1988 rời khỏi quân đội, trung úy Vàng A Sình mang hết số tiền chế độ mua được 2 đám ruộng và lao vào khai hoang trong 2 năm mới được 2 mảnh nương trồng ngô. Từ sáng sớm đến đêm khuya, ông hùng hục trồng cấy, cuốc xới trồng đủ lúa ngô khoai sắn. Đúng lúc cả nhà thoát khỏi cảnh đói thì cuối năm 1994, vợ ông mất vì bệnh nặng. Vợ mất khi 6 đứa con còn nhỏ, đứa út mới 1 tháng tuổi. May có bà Thao Thị Rùa hơn ông 2 tuổi cũng mất chồng, thương tình nên gắn kết nhau lại, giúp ông chăm sóc nuôi nấng cả đàn con trưởng thành đến ngày hôm nay. Giờ chỉ 2 vợ chồng già sống bên nhau.
Tôi dạm hỏi về những đóng góp cho địa phương, AHLLVT Vàng A Sình ngượng nghịu: Từ năm 1989 tham gia Mặt trận Tổ quốc của xã Tả Phìn, đến năm 2002 thì phải xin nghỉ vì “trụ sở xã cách bản xa quá, ngày nào cũng cuốc bộ cả chục cây số đi làm, có việc các thôn cũng toàn đi bộ, mỏi cái chân quá thôi”. Nghỉ cán bộ xã thì làm trưởng bản cho đến 2018, ông Sình lại cười: “Chạy đi chạy lại, cũng mỏi rời cái chân”...
Dẫu ông Sình nói vậy, nhưng hỏi người dân Ngải Chồ, ai cũng bảo “Già Sình làm được nhiều việc tốt”, và bấm đốt tay kể: Những năm 1990, già Sình đã lặn lội cả tháng trời đào rãnh, ghép ống tre làm đường nước sạch dẫn về bản; đầu những năm 2000, thấy con đường mòn vào bản phải vượt đỉnh núi cao trơn trượt, già Sình cặm cụi mấy tháng liền cuốc đất làm đường tránh dưới chân dốc bằng phẳng, làm gương cho cả bản mang cuốc xẻng mở đường mới dễ đi như bây giờ...
Riêng với AHLLVT Vàng A Sình, ông bảo: “41 năm trước mình giữ đất để dân mình không mất đất sinh sống. Giờ mình chỉ mong dân mình có công ăn việc làm ở quê hương và không bỏ đất để di cư tự do hoặc sang bên kia biên giới làm mướn làm thuê”... (còn tiếp)
Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.