Thăng Long giai thoại - Bài 9: Nguồn gốc tên gọi ô Cầu Dền, ô Đống Mác

16/09/2010 23:16 GMT+7

Hai cửa ô phía nam Hà Nội là ô Cầu Dền và ô Đống Mác nằm cách nhau chừng 2.000m trên đường Trần Khát Chân, tức đoạn đê Bình Lao, thuộc đất Lãng Yên - Lạc Trung. Thời Pháp là con đường đánh số voie 222.

Từ Trung tâm Thương mại Tràng Tiền bên bờ Hồ Gươm, theo phố Hàng Bài (chừng 620m) rồi theo phố Huế (khoảng 1.200m), ta gặp ngã tư lớn nối phố Huế, Bạch Mai, Trần Khát Chân, Đại Cồ Việt. Đây chính là vị trí của ô Cầu Dền ngày xưa.

Ô Cầu Dền là một cửa ngõ của kinh thành Thăng Long, xuất hiện trong sử từ thời Lý, thế kỷ XI - XII (Đại Việt sử lược, quyển II, III, NXB Sử học, Hà Nội, 1960). Cố giáo sư Trần Quốc Vượng cho hay: trước đó, cái tên này đã xuất hiện ở cố đô Hoa Lư (Trường Yên, Ninh Bình) với tấm bia cổ, chiếc cầu đá bắc qua sông Hoàng Long và cũng là một cửa ngõ của kinh thành Hoa Lư. Vì lẽ đó, có tác giả đã cho rằng cái tên Ô Cầu Dền cũng như nhiều tên khác ở Hà Nội: Cầu Đông, Chợ Dừa, Đình Ngang... đã được Lý Thái Tổ mang từ cố đô Hoa Lư ra kinh đô mới Thăng Long cách đây nghìn năm trước.

Một truyện khác, Sự tích cửa ô Cầu Dền lại chép: đời nhà Mạc, ở làng Kim Liên có một người học trò cha mẹ chết sớm, nhà nghèo, phải đi dạy học kiếm ăn qua ngày. Mấy năm đói kém, nhờ có mấy mẫu ruộng rau dền nên anh đã cứu giúp được nhiều người qua khỏi nạn đói. Vì thế, người ta gọi chỗ ở của anh là Cầu Dền. Các cụ cao niên ở đây vẫn còn nhớ vùng này xưa kia (và thậm chí cho đến những năm 1945 - 1954) có con sông nhỏ dẫn nước thải từ nội thành ra, hai bên bờ có đất bãi phù sa, rau màu quanh năm xanh tốt. Trong đó có rau dền là nhiều hơn cả. Chiếc cầu bắc qua con sông hai bên bờ có nhiều rau dền nên gọi là Cầu Dền.


Ô Cầu Dền năm 1946 - Ảnh: T.L

Các tài liệu và bản đồ cũ cho chúng ta thấy rõ vị trí của địa danh này cố định và tồn tại khá lâu, ít ra là từ thế kỷ XVIII. Dưới triều Nguyễn, cửa ô Cầu Dền là cửa ô chính quan trọng nhất trên đường thiên lý. Đó là con đường nối liền Thăng Long với các trấn và các tỉnh phía Nam (vào kinh đô Huế) qua những đồi cây cối rậm rạp và cả một rừng mai (nay thuộc khu vực Bạch Mai, Trương Định). Năm 1782 Lê Hữu Trác lên kinh qua cửa ô Cầu Dền có tả như sau: “Tôi thấy một cái thổ thành không cao lắm, kế bên có một dãy tường nhỏ, trên mặt tường ngựa đi được; phía ngoài là hàng rào tre dày đặc, dưới hàng rào có hào sâu, trong hào thả chông, thật là mười phần kiên cố. Ba tầng vọng canh được thiết lập nơi đây, tầng nào cũng có quân lính đứng thành hàng hai bên, đao thương xán lạn, hào quang như tuyết. Lính giữ cửa thấy bọn tôi đi có mang binh khí, xét hỏi thật nghiêm ngặt, đến khi biết rõ đầu đuôi, lại nhận thấy dấu hiệu áo lính trấn thủ đất Nghệ An mới để cho đi”.

Cùng với việc mở rộng Hà Nội, người Pháp đã phá bỏ các cửa ô trong đó có ô Cầu Dền. Cái khung cảnh ô Cầu Dền vào đầu thế kỷ XX không có cái vẻ ngoài nghiêm trang, chững chạc như ô Quan Chưởng hay thơ mộng như ô Yên Phụ. Nhưng nó lại có cái sầm uất, bộn bề của cảnh chợ búa họp suốt quanh năm.

"Ông Mạc" là Mạc Đĩnh Chi?

Ô Đống Mác cách ô Cầu Dền không xa. Nay nằm ở cuối phố Lò Đúc, quãng giao nhau với đường Trần Khát Chân và đường Kim Ngưu. Cửa ô này dưới thời Chúa Trịnh Sâm (thế kỷ XVIII) có tên là ô Ông Mạc. Sau đó có tên là Thanh Lãng, vào nửa cuối thế kỷ thứ XIX, lại đổi là ô Lãng Yên. Cửa ô Đống Mác hiện nay đã mất hết hình tích cũ. Chẳng còn tìm thấy xứ đồng, cửa ô, trạm gác của lính triều ngày xưa. Giờ qua đấy chỉ thấy phố, nhà mới san sát.

Cửa ô này là nơi có thể vào thành Thăng Long cả bằng đường bộ lẫn đường thủy, nên thường có quân lính canh gác khá nghiêm ngặt. Trong Thượng kinh ký sự, Hải Thượng Lãn ông Lê Hữu Trác khi về thăm quê ở Hải Dương đã đi qua lối này: “Ngày 10.9, từ sáng tinh mơ còn trăng, tôi đi ra cửa ô Ông Mạc, cửa thành chưa mở, lính canh thấy có thẻ “Hành quân phù” (thẻ cấp cho đi đường của Phủ Chúa) mới mở cho đi”.

Ông Mạc là ai? Quần thư tham khảo của Phạm Đình Hổ (1768-1839) viết về Ông Mạc như sau: “Ông làm quan trong triều, nhà riêng ở Nam Xá (có lẽ là Cơ Xá Nam) thành Đại La, tục gọi là dinh Ông Mạc”. Đất Ông Mạc bao gồm mấy làng Lương Yên - Lãng Yên xưa (đất phố Lê Quý Đôn và Lương Yên ngày nay). Nhà nghiên cứu Hoàng Đạo Thúy trong cuốn Người và cảnh Hà Nội viết: “Đường dọc thứ hai của vùng này là phố Lò Đúc, đi từ phố Phan Chu Trinh đến cửa ô Đống Mác. Xưa kia phố này có nhiều lò đúc đồng, sau chuyển lên Ngũ Xá. Người ta kể là tên Đống Mác từ tên là Mạc Đĩnh Chi mà ra, vì ông Mạc có nhà riêng ở đây!”.

Dân gian lại giải thích tên ô Đông Mác là do từ thời quân Tây Sơn kéo ra Bắc, tiến đánh cửa ô này, giáo mác vứt lại thành đống. Từ đó, nơi đây có tên là ô Đống Mác. Cho đến nay, thật khó kiểm chứng xem cách lý giải nào là đúng là sai.

Mạc Đĩnh Chi là nhà văn, nhà ngoại giao nổi tiếng thời Trần Anh Tông. Người làng Lũng Động, Chí Linh, Hải Dương. Đỗ Trạng nguyên (1304), rồi làm quan cho ba đời vua Trần được phong đến chức thượng thư. Được các vua Trần cử sang sứ nhà Nguyên. Mạc Đĩnh Chi là một sứ thần ứng đối, biện luận giỏi, giữ vững được uy tín và lợi ích quốc gia, khiến triều đình nhà Nguyên kính nể. Giai thoại kể rằng ông là người có khuôn mặt xấu xí, vua Trần Anh Tông không muốn để ông đỗ đầu, Mạc Đĩnh Chi dâng bài Ngọc tỉnh liên phú (Bài phú hoa sen giếng ngọc) bày tỏ phẩm giá thanh cao của mình, ví mình như hoa sen trong giếng ngọc. Tương truyền khâm phục tài năng của ông, nhà Nguyên đã phong ông là Lưỡng quốc Trạng nguyên (trạng nguyên của hai nước).

Nguyễn Ngọc Tiến

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.