Mở lối để doanh nghiệp FDI trụ vững, tối đa hóa tăng trưởng

29/04/2021 18:35 GMT+7

Khủng hoảng kinh tế do đại dịch Covid-19 gây ra là cơ hội để kiểm tra lại phương pháp thu hút và duy trì hiệu quả các dự án FDI . Đồng thời tạo liên kết kinh tế giữa khu vực FDI và khu vực kinh tế trong nước.

Theo Hội nghị Liên hợp quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD), do tác động tiêu cực của dịch bệnh, dòng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) toàn cầu ước giảm từ 30% - 40% trong giai đoạn 2020-2021. Tất cả các lĩnh vực đều bị ảnh hưởng, nhưng FDI giảm mạnh và rõ ràng trong các lĩnh vực dịch vụ liên quan đến tiêu dùng như: hàng không, khách sạn, nhà hàng, các ngành sản xuất thực phẩm, đồ uống và bán lẻ.
Việc thu hẹp FDI ảnh hưởng nghiêm trọng đến các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.

FDI toàn cầu yếu, kinh tế thế giới khó khoẻ

Theo báo cáo từ UNCTAD, Liên hợp quốc cũng cảnh báo sự lây lan của Covid-19 có thể làm giảm nguồn FDI trên toàn thế giới tới 15%, khi các doanh nghiệp (DN) quốc tế đang gặp khó khăn.
Nếu FDI toàn cầu bị thu hẹp trong một thời gian dài, hậu quả đối với các nước đang phát triển sẽ rất nặng nề và nghiêm trọng, bởi các nước này có danh mục dòng vốn FDI đa dạng và lợi ích tiềm năng của dòng vốn này rất lớn. Dòng vốn FDI không chỉ thúc đẩy doanh thu xuất khẩu ở các nước đang phát triển, mà còn tạo ra nhiều việc làm, tác động tích cực hơn đến phát triển cơ sở hạ tầng, chuyển giao công nghệ, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất.
Tại Việt Nam, Phòng Thương mại - Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam (WB) đưa ra công bố “Báo cáo tác động của dịch bệnh Covid-19 đối với doanh nghiệp Việt Nam: Một số phát hiện chính từ điều tra doanh nghiệp 2020”, và cũng khẳng định cả khu vực doanh nghiệp (DN) tư nhân trong nước và DN FDI đều bị ảnh hưởng nặng nề.
Theo ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng ban Pháp chế VCCI, đại dịch Covid-19 tác động rất tiêu cực đến DN tại Việt Nam. Trong đó, 87,2% DN cho biết chịu ảnh hưởng ở mức “phần lớn” hoặc “hoàn toàn tiêu cực”. Có tới 84% DN tư nhân và 85% doanh nghiệp FDI có trên 20 năm hoạt động chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 ở mức phần lớn hoặc hoàn toàn tiêu cực.
Kết quả khảo sát 1.564 doanh nghiệp FDI tại Việt Nam cũng ghi nhận 87,9% số đó chịu tác động tiêu cực từ dịch bệnh. 22% doanh nghiệp FDI cho biết họ phải sa thải lao động do tình hình kinh doanh suy giảm. Số lao động buộc phải nghỉ việc xấp xỉ 30% tổng số lao động làm việc tại DN.
Đơn cử như ngành hàng đồ uống, tiêu dùng nhanh, báo cáo của Vietnam Report nhận định: “Covid-19 đã phơi bày nhiều điểm yếu của ngành thực phẩm và đồ uống, điển hình là các vấn đề liên quan đến logistics, phân phối, quản trị nhân sự”.
Đối mặt với một cú sốc như Covid-19, 85% DN gặp khó khăn liên quan đến việc phân phối, logistics: nhu cầu thực phẩm thiết yếu, đóng gói tăng cao, nhưng lượng hàng lưu kho không đủ, đến khi DN phải tăng công suất để đáp ứng nhu cầu thị trường thì lại rơi vào tình trạng hàng loạt nhà hàng đóng cửa, tất cả những lỗ hổng trên dẫn đến hậu quả là mức tiêu thụ đồ uống bị sụt giảm nghiêm trọng
Theo Báo cáo mới nhất của Công ty nghiên cứu thị trường Nielsen Việt Nam, tiêu dùng trong ngành hàng tiêu dùng nhanh giảm 7,1%, trong đó ngành đồ uống không cồn giảm 9,2% và đồ uống có cồn giảm 12,9%. Riêng với ngành hàng nước giải khát, do những tác động của dịch Covid-19, tổng sản lượng tiêu thụ của năm 2020 giảm 10% so với năm 2019, và đây cũng là mức giảm sâu nhất trong vòng 3 năm trở lại đây của ngành hàng này.
Việc suy giảm của ngành nghề nước giải khát có thể ảnh hưởng tới nhiều ngành nghề liên quan cũng như hàng triệu lao động trực tiếp và gián tiếp trong chuỗi cung ứng.

Chính phủ cần thu hút, duy trì và sàng lọc các khoản đầu tư hiệu quả để tối đa hoá tăng trưởng kinh tế

Ảnh VCCI

Định hình chính sách hỗ trợ doanh nghiệp FDI hậu Covid-19

Theo TS Trần Đình Thiên, thành viên tổ nghiên cứu tư vấn của nguyên Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, chính sách thu hút các nhà đầu tư nước ngoài chỉ là bước đầu tiên hướng tới một chiến lược FDI thành công. Thuyết phục các nhà đầu tư ở lại và mở rộng hoạt động mới là yếu tố then chốt để đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế.
Với bối cảnh kinh tế, xã hội, chính trị thế giới thay đổi sâu sắc và hệ luỵ do đại dịch Covid-19 mang lại, việc thu hút FDI ở nước ta trong thời gian tới, theo ông Thiên, cần có những thay đổi về chiến lược, chính sách và đòi hỏi năng lực, tinh thần dân tộc của các cấp lãnh đạo có liên quan.
Cụ thể, Chính phủ cần rà soát và bổ sung các quy định, điều kiện để thu hút, duy trì và sàng lọc các khoản đầu tư hiệu quả có ý nghĩa quan trọng hơn là thu hút FDI để tối đa hóa tăng trưởng kinh tế. Nhìn nhận khủng hoảng do đại dịch gây ra là cơ hội để Chính phủ kiểm tra lại phương pháp thu hút và duy trì hiệu quả các dự án FDI phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá đất nước đồng thời tạo liên kết kinh tế giữa khu vực FDI và khu vực kinh tế trong nước.
Trước thực tế "dư âm" tác động của dịch Covid không phải chỉ một sớm, một chiều, ông Thomas Mc. Clelland, Chủ tịch Tiểu ban Thuế và Chuyển giá của Eurocham (Hiệp hội DN châu Âu tại Việt Nam), cho rằng khi DN chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch Covid-19, các chính sách hỗ trợ DN về thuế trong năm qua là hết sức tích cực.
Theo ông Thomas Mc. Clelland, những chính sách như giãn thuế cho các DN, giảm thuế TNDN, được khấu trừ thuế đối với các khoản chi cho Covid-19, tăng giảm trừ người phụ thuộc và giảm trừ gia cảnh đối với thuế thu nhập cá nhân... vẫn cần được xem xét và triển khai ít nhất đến hết 2021 để "khoan sức DN".
Đồng quan điểm, TS Trần Đình Thiên cũng cho rằng, ngoài những gói hỗ trợ DN ra thì việc ổn định môi trường chính sách trong thời điểm này là yêu cầu bắt buộc; đặc biệt là những chính sách thuế như không tăng thuế, không ban hành thêm những sắc thuế mới đóng vai trò rất quan trọng để không làm gia tăng thêm gánh nặng cho các doanh nghiệp, đồng thời tạo điều kiện thu hút các doanh nghiệp FDI tiếp tục đầu tư vào Việt Nam.
Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.