Bệnh tiểu đường và tác hại trên mạch máu

07/01/2006 22:08 GMT+7

Phần lớn các tổn thương mạch máu trong bệnh tiểu đường đều là hậu quả của việc rối loạn chuyển hóa lipid, mà trong đó hiện tượng tăng đường huyết là một trong những nguyên nhân chính làm phát sinh ra bệnh và thúc đẩy bệnh ngày càng trầm trọng hơn. Những rối loạn chuyển hóa lipid này, nếu không được điều trị kịp thời, sẽ phát sinh ra những mảng xơ vữa động mạch và dẫn đến các biến chứng tắc động mạch.

Bệnh mạch vành

Bệnh nhân bị tiểu đường dễ bị mắc bệnh mạch vành 2-3 lần hơn so với người bình thường. Các biểu hiện chính của bệnh là: cơn đau thắt ngực, gặp khi bệnh nhân làm việc gắng sức và nhồi máu cơ tim. Có những trường hợp, bệnh nhân không hề biết có bệnh tiểu đường và chỉ khi bị cơn đau thắt ngực hoặc nhồi máu cơ tim, các khám nghiệm lâm sàng và cận lâm sàng mới cho thấy bệnh tiểu đường đã có từ lâu.

Với bệnh nhân bị bệnh tiểu đường, tiên lượng của bệnh lý mạch vành rất xấu, hơn cả những bệnh nhân không bị tiểu đường vì bệnh nhân tiểu đường thường có suy tim, suy thận kèm theo, bệnh nhân có thể bị nhiễm toan chuyển hóa ngay sau khi bị nhồi máu cơ tim. Do đó việc điều trị cũng gặp nhiều khó khăn, nhất là khi sử dụng Insulin trên bệnh nhân có suy thận.

Để phòng ngừa biến chứng mạch vành cho bệnh nhân tiểu đường, phải bảo đảm các nguyên tắc sau: kiểm soát đường trong máu thật chặt chẽ và thường xuyên bằng thuốc hạ đường huyết uống hoặc tiêm, điều trị có hệ thống các rối loạn chuyển hóa chất béo đi kèm và ngừng hút thuốc lá, giảm cân nặng...

Tai biến mạch máu não

Bệnh nhân tiểu đường có thể bị tai biến mạch máu não, tỷ lệ cũng cao hơn người bình thường khoảng 2 lần. Tổn thương hay gặp nhất là hẹp hoặc tắc động mạch cảnh do những mảng xơ vữa đi kèm. Bệnh nhân thường có những biểu hiện của thiếu máu não trước khi bị tai biến như: hay quên, chóng mặt, tri giác không được tốt... Khi có nghi ngờ, bác sĩ sẽ cho người bệnh đi làm siêu âm Doppler mạch máu vùng cổ, vì đây là xét nghiệm tốt nhất có hiệu quả cao trong đánh giá các tổn thương của mạch máu ở vùng này, để từ đó có hướng điều trị thích hợp. Có thể phòng ngừa bằng sử dụng thuốc Asprin liều thấp từ 80-160 mg/ngày.

Bệnh mạch máu ngoại vi

Quan niệm hiện nay của các thầy thuốc cả nội khoa và ngoại khoa là: bệnh tiểu đường là một bệnh mạn tính, không có chuyện chữa khỏi hoàn toàn bệnh mà chỉ có thể chặn đứng bệnh bằng chế độ ăn uống, luyện tập hợp lý, các thuốc kiểm soát đường huyết sử dụng mỗi ngày và cần phải theo dõi, nhằm phát hiện sớm những biến chứng về mạch máu để có thể có được phương thức điều trị tốt nhất.

Các nghiên cứu ở các quần thể dân cư khác nhau đều cho thấy: có sự liên quan mật thiết giữa bệnh tiểu đường và chứng xơ vữa động mạch. Ở những bệnh nhân bị tiểu đường, tỷ lệ hoại tử chi tăng từ 8 đến 150 lần so với những người bình thường. Cả hai giới nam và nữ đều bị biến chứng như nhau và có tới 25% bệnh nhân tiểu đường bị các biến chứng này.

Các triệu chứng của bệnh rất giống với bệnh viêm tắc động mạch do xơ vữa động mạch như: đau cách hồi (bệnh nhân bị đau bắp chân khi đi lại nhiều, đau sẽ giảm đi khi ngồi nghỉ), đau chân ở tư thế nằm, chân lạnh và tím ở các ngón, teo cơ, cuối cùng là hoại tử khô và hoại thư ướt khi có nhiễm trùng.

Bệnh nhân được chẩn đoán chính xác bằng chụp động mạch có cản quang với kỹ thuật số. Có rất nhiều khả năng sẽ xảy ra: tắc hoàn toàn các động mạch chi dưới, hẹp một phần động mạch, đoạn hẹp có thể ngắn, nhưng thông thường khá dài và lan tỏa. Việc điều trị nối ghép mạch máu cho bệnh nhân bị biến chứng động mạch ngoại vi trong bệnh tiểu đường rất khó thực hiện và tỷ lệ thành công không cao.

Các phương pháp điều trị cơ bản vẫn là: kiểm soát tốt đường huyết, bỏ thuốc lá, điều trị những rối loạn trong chuyển hóa lipid, có chế độ ăn thích hợp... Tuy nhiên, phần lớn người bệnh, nhất là người bệnh Việt Nam đều hiểu mơ hồ rằng sẽ có những loại thuốc, có những phương pháp điều trị, đặc biệt là các vị thuốc Nam sẽ chữa khỏi hoàn toàn bệnh tiểu đường. Đó là một quan niệm sai lầm và rất nguy hiểm cho bệnh nhân khi họ không tiếp tục điều trị nữa sau khi thấy đường huyết tạm ổn định trong lúc điều trị. Một thời gian sau, các biến chứng xuất hiện và lúc đó thì đã quá muộn để có một phương pháp điều trị tốt nhất.

PGS-TS Nguyễn Hoài Nam
(Giảng viên Đại học Y - Dược TP Hồ Chí Minh)

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.