Sách hay: Bốn giảng luận về Thiền của Bồ Đề Đạt Ma

27/03/2017 07:52 GMT+7

Trong truyền thống Thiền học, giác ngộ là tâm tủy của Phật giáo. Nói cho thật chính xác, giác ngộ là cứu cánh của Thiền. Muốn thấu triệt sự chứng ngộ tối hậu, cái gọi là tri thức hàn lâm thuần túy cần phải được chặt đứt từ gốc rễ để được thay thế bằng một trực kiến sâu xa hơn, thâm mật hơn, bắt nguồn từ chính Phật tính trong chân tâm của hành giả.

Tổ Bồ Đề Đạt Ma nói: “Chúng sinh điên đảo không biết không hiểu tâm mình chính là Phật” (Huyết mạch luận). Trong tất cả các trường phái Phật giáo, chỉ có Thiền tông khẳng định sự gắn kết chặt chẽ giữa “kiến tính” và giác ngộ. Và chính Bồ Đề Đạt Ma là người đầu tiên đặt nền móng cho sự gắn kết ấy. Không thể quan niệm sự ra đời và phát triển của tông môn này nếu không có nhân vật nửa lịch sử nửa huyền thoại này.
Tại Việt Nam có lẽ học giả Trúc Thiên, người dịch quyển thượng trong bộ Thiền luận của D.T.Suzuki, là người đầu tiên dịch tác phẩm của Bồ Đề Đạt Ma (Sáu cửa vào động Thiếu Thất, An Tiêm, 1971). Đến năm 2006, toàn bộ các tác phẩm được gán cho Bồ Đề Đạt Ma được nhà nghiên cứu Nguyễn Minh Tiến dịch từ Hán văn sang Việt ngữ (Thiếu Thất lục môn, NXB Tôn giáo, Hà Nội, 2006). Lần này, Công ty cổ phần văn hóa Văn Lang phối hợp với NXB Hồng Đức vừa cho ra đời bản dịch mới của dịch giả Tiến Thành dựa trên bản tiếng Anh The Zen Teachings of Bodhidharma, có kèm theo nguyên tác Hán ngữ dưới dạng bản khắc kinh được sao chụp cẩn thận. Dịch giả Tiến Thành (từng dịch trọn bộ Hoàng đế nội kinh) đã phiên âm và chuyển sang Việt ngữ trực tiếp từ bản Hán văn 4 tác phẩm của Bồ Đề Đạt Ma: Lược đạo Đại Thừa nhập đạo tứ hành quán, Huyết mạch luận, Ngộ tính luận và Phá tướng luận.
Đi vào nội dung các tác phẩm tương truyền là của Bồ Đề Đạt Ma, người được công nhận là sơ tổ của dòng Thiền Trung Hoa, chúng ta cảm nhận rằng bất kể nhân vật Bồ Đề Đạt Ma là có thật hay không, những tác phẩm này rõ ràng đã nắm được tinh tủy của Thiền học từ bên trong, đặc biệt là phần Phá tướng luận. Có thể khẳng định trong tư tưởng Thiền học sơ nguyên này không hề có sự phân biệt giữa Nam tông và Bắc tông, giữa thiền quán và việc đọc tụng kinh điển, giữa trì giới và chứng ngộ, như nhiều người đã ngộ nhận về sau. Không hề có những hành vi hay ngôn ngữ kỳ quái. Không hề có chuyện thần thông thần lực. Trái lại triết lý của Thiền, hay của Phật giáo nói chung, vẫn chỉ bao hàm trong hai chữ “giải thoát,” giải thoát chúng sinh ra khỏi sự chấp trước vào hình tướng, vào những ảo tưởng mê muội vào cõi đời phiền não. Tinh thần ấy của Thiền thực sự là một cống hiến lớn cho kho tàng tư tưởng nhân loại.
Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.