Người ở tàu không số

21/10/2021 06:07 GMT+7

Tôi gọi điện hỏi ông có được mời dự hội thảo “60 năm đường Hồ Chí Minh trên biển” vừa tổ chức tại Hải Phòng sáng 19.10 không, ông bảo còn những 4 hôm nữa mới tới ngày kỷ niệm mà (23.10).

Hóa ra ông cụ 90 tuổi này còn minh mẫn chán.

Ông là Trần Ngọc Tuấn, một trong những chiến sĩ may mắn thoát hiểm trên vùng biển xã Phổ Hiệp, H.Đức Phổ (Quảng Ngãi) trong một lần chở vũ khí vào miền Nam. Ông chính là người được bác sĩ Đặng Thùy Trâm nhắc đến trong phần mở đầu của cuốn nhật ký xôn xao một thời.

“Vậy là chiều nay các anh lên đường để lại cho mọi người một nỗi nhớ mênh mông giữa khu rừng vắng vẻ. Các anh đi rồi nhưng tất cả nơi đây còn ghi lại bóng dáng các anh: những con đường đi, những chiếc ghế ngồi chơi xinh đẹp, những câu thơ thắm thiết yêu thương. Nghe anh Tuấn ra lệnh: “Tất cả ba lô lên đường!”. Những chiếc ba lô vụng về may bằng những tấm bao Mỹ đã gọn gàng trên vai, mọi người còn nấn ná đứng lại trước mình bắt tay chào mình một lần cuối. Bỗng dưng một chuỗi nhớ thương kỳ lạ đối với miền Bắc trào lên trong mình...”. (Nhật ký Đặng Thùy Trâm ghi ngày 10.4.1968).

Ông Tuấn xem lại các kỷ vật liên quan đến tàu không số

Công Thi

Thủy thủ bất đắc dĩ

Trong một con hẻm khá ngoằn ngoèo ở Nha Trang, ngôi nhà be bé của ông Tuấn hiện lên tất với cả sự thanh bần của nó. Trò chuyện một hồi mới biết ông Tuấn quê H.Quế Sơn (Quảng Nam) - vùng đất chẳng có “họ hàng” gì với sông nước mà sao ông lại được chọn làm thủy thủ tàu không số với toàn những tay cự phách về bơi lội? Ông Tuấn nói mà như thanh minh: “Chuyện các nhà “tuyển trạch” chọn tôi vào đội quân của tàu không số được bắt nguồn từ một cơ duyên. Năm 1953, tôi cùng lớp trai làng tham gia “tình nguyện quân” bên Hạ Lào. Ăn chưa hết bao gạo thì có lệnh đình chiến. Chúng tôi về đóng quân ở xã Tịnh An, H.Sơn Tịnh (Quảng Ngãi) tham gia đào kênh Bàu Lác, chờ ngày vào Quy Nhơn xuống tàu tập kết ra Bắc.

Những tưởng đơn vị sẽ đóng chốt lâu dài ở Mộc Châu, Sơn La để trở về miền Nam thì một hôm tôi nhận giấy triệu tập đi học Trường Sĩ quan Lục quân 1. Học bộ binh nhưng ra trường, trên lại điều về Trường 45 của hải quân, đóng ở Quảng Yên, Quảng Ninh. Tại đây, tôi được phong quân hàm thiếu úy, làm trợ lý chính trị tiểu đoàn, bắt đầu cho một hành trình mà tôi hoàn toàn không ngờ tới: làm chính trị viên cho các chuyến tàu chở vũ khí vào Nam. Sinh ra trên núi mà vẫn làm thủy thủ tàu không số, có lẽ tôi thuộc trường hợp hiếm hoi trong số những chiến sĩ hải quân thời đánh Mỹ”.

Trần Ngọc Tuấn (hàng đứng, thứ 4 từ trái sang) cùng 13 đồng đội của tàu không số mật danh 43

NVCC

Thoát chết sau hai lần chìm tàu

Vẫn chất giọng Quảng Nam không pha lẫn, ông Tuấn bắt đầu tua ngược kim đồng hồ thời gian: Từ năm 1962 đến năm 1968, ông tham gia 9 chuyến vận chuyển vũ khí vào miền Nam trên những chiếc tàu không số, trong đó có hai chuyến chìm. Cả hai chuyến chìm là do ông cùng đồng đội trực tiếp cho nổ mìn để xóa dấu vết sau khi bị địch phát hiện, đều diễn ra tại Quảng Ngãi. Một chiếc tại gần cửa biển Sa Kỳ thuộc xã Bình Châu (H.Bình Sơn), còn một chiếc tại thôn Quy Thiện, xã Phổ Hiệp (nay là Phổ Khánh), H.Đức Phổ. Ông Tuấn được bác sĩ Đặng Thùy Trâm nhắc đến trong cuốn nhật ký của mình qua vụ chìm tàu thứ hai này.

Ông Tuấn hồi tưởng: “Năm 1962, đang làm trợ lý chính trị tiểu đoàn thì một hôm cấp trên gọi tôi lên giao việc: “Đồng chí chuẩn bị tư trang để nhận nhiệm vụ đặc biệt”. Hồi đó mà nghe “nhiệm vụ đặc biệt” là biết trở về miền Nam nên rất phấn khích. Tôi cứ đinh ninh là mình sẽ đi đường bộ chứ đâu ngờ là đi bằng những chiếc tàu đánh cá như vậy!”.

Ông Tuấn kể tiếp, giọng hào hứng như câu chuyện vừa mới xảy ra hôm qua: “Những chuyến hàng đầu tiên, chúng tôi chở vô tận miền Tây Nam bộ, chuyến nào cũng trót lọt. Thú thật là giai đoạn đầu, đi miền Nam bằng tàu biển như... đi chợ. Cho mãi đến khi sự kiện Vũng Rô làm “choàng tỉnh” cả hệ thống chiến tranh đồ sộ của người Mỹ, việc đưa vũ khí vào Nam bắt đầu khó khăn dần. Mỹ đã bố trí lực lượng không quân, hải quân dày đặc trên Biển Đông để kiểm soát các con tàu mà chúng nghi vấn. Hai vụ mà Mỹ phát hiện tại Quảng Ngãi, buộc chúng tôi phải chấp nhận hy sinh và hủy tàu. Đó cũng là hai lần tôi phải trở ra Bắc bằng đường bộ”.

Bị “phe ta” bắt nhốt vì nghi đào ngũ

Sau chuyến đi trót lọt chở vũ khí vào tận Trà Vinh, tháng 3.1967, ông Tuấn cùng đồng đội nhận lệnh chở chuyến hàng vào Quảng Ngãi. Khi tàu chuẩn bị tiếp cận bờ thì máy bay trinh sát cùng tàu chiến của Mỹ phát hiện. Chúng vây đuổi rất rát. Ông Tuấn cùng đồng đội quyết định bơi vào bờ rồi cho nổ tung con tàu cùng toàn bộ vũ khí mang theo. Đặt chân lên bờ, họ nhìn hướng Trường Sơn trực chỉ.

Nhắc lại cuộc vượt Trường Sơn lần đó, hơn 50 năm sau ông Tuấn vẫn còn tái mặt: “Sợ bị địch bắt sống nên chúng tôi đã hủy toàn bộ giấy tờ tùy thân, lại không thể khai thật với tổ chức mà chúng tôi gặp trên đường là mình tham gia chở vũ khí vào Nam bằng đường biển bị địch phát hiện phải hủy tàu. Vì vậy, không một trạm giao liên nào ở Trường Sơn “đón” chúng tôi cả. Gặp đâu xin ăn đó, vừa đói vừa bị những cơn sốt rét hành hạ, người nào cũng trơ xương. Đã vậy, ra tới Trạm 400 thuộc địa phận Hà Tĩnh, chúng tôi còn bị bắt nhốt vì họ nghi là bộ đội đào ngũ! Đến nước này thì tôi phải khai thật rằng chúng tôi là quân của ông Đoàn Hồng Phước, Đoàn trưởng Đoàn 759 (tức đoàn tàu không số). Họ đã tìm cách liên lạc với chỉ huy đoàn và biết chúng tôi là lính của tàu không số. Đến đây thì mọi việc trở nên đơn giản hơn. Đúng 6 tháng sau ngày cho nổ tung con tàu gần cửa Sa Kỳ, chúng tôi mới về tới Hải Phòng”. Chưa kịp “hoàn hồn” sau chuyến đi thừa chết thiếu sống ấy, ông Tuấn lại được gọi lên đường. Lần này vẫn là địa bàn Quảng Ngãi nhưng ở tận phía nam tỉnh này, tức xã Phổ Hiệp.

Chiếc tàu mang mật danh 43 chọn bãi biển Quy Thiện để đổ bộ. Và bị phát hiện. Tàu ông Tuấn bị 4 tàu chiến cùng 10 ca nô của Mỹ đeo bám quyết liệt. Đạn từ máy bay, tàu chiến của Mỹ bắn thẳng vào chiếc tàu chở vũ khí của ta như mưa xối. Ông Tuấn cùng đồng đội một mặt bắn trả, mặt khác ông lệnh cho máy trưởng tăng tốc để vào gần bờ trước khi trời sáng hẳn. Một bức điện khẩn được đánh về Bộ chỉ huy ngoài Bắc: “Tàu 43 gặp địch vây đánh, quyết đánh trả, hủy tàu”. Lúc đó đã quá 12 giờ đêm. Con tàu đã lách trong mưa đạn pháo của giặc để tiếp cận bờ nhanh nhất. Cũng như chiếc tàu ở Sa Kỳ trước đó, tàu 43 đã được cho nổ tung. Nhưng điều đau đớn là có 3 đồng đội đã phải nằm lại.

14 người còn lại đã được người dân Quy Thiện cưu mang rồi dẫn vượt QL1 để lên Trạm xá Bác Mười, nơi có bác sĩ trẻ tuổi tên Đặng Thùy Trâm chờ đón họ. Hơn một tháng sau thì 14 chiến sĩ lại vượt Trường Sơn ra Bắc lần nữa. Nhưng lần này thì có “bảo bối” trong tay được tổ chức xác nhận hẳn hoi. “Không ngờ buổi chiều chia tay chị Thùy Trâm cũng là lần vĩnh biệt người bác sĩ xinh đẹp và đôn hậu ấy”, ông Tuấn bùi ngùi nhớ lại buổi chia tay từ hơn 50 năm trước.

Sau chuyến vượt Trường Sơn thứ 2 ấy, ông Tuấn ra quân rồi chuyển sang làm cán bộ tổ chức cho một trường đại học cho đến ngày nghỉ hưu. Trò chuyện với ông Tuấn, một điều khá bất ngờ với tôi là tất cả những người chỉ huy các con tàu “vào Nam” những năm tháng ấy đều được phong tặng hoặc truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang, trừ ông!

Không ai ra trận để được nhận danh hiệu anh hùng, nhưng nhà nước cũng không nên “bỏ sót” những người xứng đáng được nhận danh hiệu ấy như ông Trần Ngọc Tuấn.

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.