Mẹ tôi không khóc - Truyện ngắn của Nguyễn Mai Dung

26/07/2020 06:38 GMT+7

Tôi đi học về thấy một người đàn ông ngồi bó gối lọt thỏm trong chiếc ghế mây đặt giữa nhà, trên tay ghế vắt vẻo chiếc áo vải ka ki màu nâu đất ngậm một bụng gió bay phần phật.

Phía bên kia mẹ đang ngồi trên chiếc ghế đối diện, tay phe phẩy quạt nan, những giọt mồ hôi trườn chậm rãi từ cổ xuống xương ức, ánh mắt đỏ quạnh và hoang mang nhìn ông ấy đang miên man trong dòng suy tưởng của chính mình.
Đó là một người đàn ông đã ngoài tứ tuần, khuôn mặt nhàu nhĩ như quả táo tàu một nắng, bé chỉ bằng bàn tay, sần sùi những vết lồi lõm, hai má hóp chặt. Người gầy nhẳng, lớp da vừa đen lại mốc meo, đôi mắt ánh lên tia nhìn hoang mang. Không có bất kỳ biểu lộ gì cho thấy sự sống còn sót lại trên cơ thể nhìn từ đầu đến chân chẳng bói được nổi chút thiện cảm.
Tôi đặt phịch cái cặp lên bàn, mẹ nhác nhìn sang, ngón tay đưa lên miệng suỵt ra dấu bảo tôi giữ yên lặng “để ông ấy ngủ”, rồi mẹ kéo tôi ra sau chái nhà thì thà thì thụt như buôn bạc giả.
- Ông ấy là ai? Tại sao lại ở nhà mình? - Tôi hỏi trong khi mắt vẫn tò mò ngó về phía cửa sổ.
Mẹ lót dép ngồi bệt xuống nền đất, nhìn lên tàng cây sấu như đang tìm từ, tiếng mẹ lẫn trong hơi gió rỉ rả đuổi bắt nhau. “Ông lạ lắm...”, mẹ như không phải nói với tôi, cũng chẳng nói với mình, mà là một lời thú nhận khi phải sống cô độc và giấu mình quá lâu rồi bỗng dưng có một quả bóng bay được thổi đầy hạnh phúc ai vừa đặt vào tay mình.
Mẹ dọn gian chứa củi bên hông bếp, thêm chiếc giường mét hai, đặt chiếc tủ gỗ ép rẻ tiền gần cửa sổ vào đấy cho người đàn ông ở đó. Trên song cửa mẹ treo cả chiếc phong linh hình sáo trúc, thêm chậu hoa mười giờ đã nở bung những cánh hoa nhỏ xíu hồng rực, để hoa với chùm nắng vàng hườm cứ ỡm ờ, vuốt ve nhau. Song, có lẽ, những thứ như nghệ thuật phải cần đến sự tinh tế để cảm thụ chừng như với ông ấy là khuyết thiếu.
Ông ấy không nhớ nổi tên của mình, từ đâu đến và đã có gia đình chưa. Tôi nghĩ đã có một chuyện khủng khiếp nào đó xảy ra trong quá khứ khiến cho những ký ức của ông ta bị bôi xóa hết. Mẹ bảo cứ gọi người đàn ông đó là An (trong “bình an”) với mong muốn cuộc sống của ông ấy từ nay luôn an nhiên. Nhưng tôi thích gọi ông ấy là Cái Này! Mẹ tôi không phản đối cũng chẳng ủng hộ, mà giống như không quan tâm.
Có đôi lần tôi hỏi mẹ bố con đâu, mẹ chỉ trệu trạo nói “bố mày hẹn bình minh sẽ về đảo lại viên ngói mà ông ấy đi riết hơn chục năm không thấy vác mặt về”. Nghe mọi người kể, ngày ấy bố tôi cùng những người đàn ông trong xóm theo tàu ra khơi đánh cá, bất ngờ gặp cơn bão lớn, sóng đánh bể tàu cá, nước tràn vào làm chiếc tàu chìm nghỉm. Những người còn lại đều sống sót, chỉ có bố tôi nằm lại biển khơi vì ông không biết bơi. Dân đi biển không biết bơi, nghe buồn thế nhưng lại là sự thật. Có người hỏi sao không biết bơi vẫn đi biển, bố tôi chỉ cười hềnh hệch mà rằng “thà chết đuối vẫn hơn là chết đói”. Tôi hiểu khi phải đứng giữa những nỗi sợ hãi, con người ta sẽ chọn cho mình nỗi sợ êm ái và đẹp đẽ nhất. Có lẽ khi ấy bố tôi đã nghĩ như vậy.
Các bà vợ nghe tin chiếc tàu đánh cá gặp bão có chồng mình, ai nấy khóc lóc thảm thiết, chỉ có mẹ tôi là vẫn bình thản. Sáng sau cơn bão, những người đàn ông trở về trên chiếc tàu của lực lượng biên phòng. Dọc bờ biển người dân xóm chài kéo nhau ra bờ biển đứng chật ních, tiếng gió rít, sóng rì rào, tiếng người nói, tiếng khóc, rồi mùi hơi người, và cả mùi của chia ly bao bọc một bầu không khí chẳng gọi nổi tên. Đám người thưa dần, bờ biển bỗng chốc chỉ còn mẹ đứng đó nhìn mãi về phía biển.
Mẹ không khóc.
Người xóm chài nói mẹ là người đàn bà vô tình, tim gan chó tha mất, chồng mất không nhỏ được giọt nước mắt, dù là giả lả để che mắt thiên hạ, không cả ban thờ. Mẹ tôi chỉ thở dài bảo “chết phải thấy xác”. Ánh mắt mẹ nhìn ánh nắng xiên qua khe hở trống hoác trên trần nhà giữa hai viên ngói mà không biết che bằng gì, cũng như trong lòng mẹ luôn có một khoảng trống bố đã để lại.
Có một giai thoại ít người biết về mẹ tôi, ngày ngoại còn sống, ngoại từng kể, ngày sinh mẹ tôi, mẹ không hề khóc, phát đến đỏ mông mỏi tay mẹ vẫn không khóc, chính xác là chỉ có duy nhất một tiếng kêu ngắn ngủi, nó mỏng, yếu ớt và nhỏ đến mức ngay cả ngoại và bà đỡ cũng không dám chắc đã nghe thấy. Từ lúc ấy ngoại đã đoán được phần nào đó về cuộc sống sau này của đứa con gái bé bỏng. Đến khi lớn hơn, những lần mẹ bị đòn roi của ngoại, khi chia tay mối tình đầu, mẹ cũng không khóc. Thậm chí khi ngoại mất, mẹ tôi cũng không nhỏ được giọt nước mắt nào. Trong đám tang ngoại, làng xóm nói mẹ tôi là đứa con gái máu lạnh.
***
Chuyện một sáng nọ, trong nhà hai mẹ con “bà góa” bỗng xuất hiện một người đàn ông nhanh chóng truyền đi khắp cái làng chài bé bằng mắt muỗi, tới từng xó xỉnh, chui vào từng góc giường như một thứ bệnh dịch, thành chủ đề đem ra mổ xẻ cho những người rảnh thích hóng hớt. Họ còn không buông tha cho cả một đứa trẻ như tôi. Họ nói Cái Này sẽ lấy mất mẹ, đuổi tôi ra khỏi nhà và nhiều thứ đáng sợ khác. Với sự ích kỷ và ma mãnh của con bé mười ba tuổi, tôi tin ngay những lời độc địa ấy là sự thật. Tôi lo sợ và tức giận thật sự, chính điều đó châm ngòi cho trái bom trong người tôi chỉ chờ ngày phát nổ.
- Cho này…
Tiếng của Cái Này làm tôi giật mình, thoát khỏi dòng suy nghĩ, ngẩng lên đã thấy ông ta đưa cho tôi cái vật gì nhàu nhĩ và mềm queo mà tôi phải nhìn mãi mới hình dung ra đó là một con hạc giấy được gấp từ mảnh báo cũ. Tôi đã nhắc mình không được nhận bất cứ cái gì từ tay ông ta, nhưng khi nhìn vào cử chỉ, cách ông ta chụm hai tay lại, đặt con hạc ở giữa hết sức nâng niu như thể sắp trịu xuống nếu tôi không cầm, rồi cả ánh mắt cụp xuống tỏ ra đáng thương hoặc cố làm ra vẻ như vậy, tất cả đều gợi cho tôi cảm giác của sự chân thành. Tôi bất giác cầm nó và tự nhủ cái thứ vớ vẩn này chẳng đáng gì. Ngay lúc đó, trước mặt ông ta, tôi vò nát rồi vứt vào bếp lửa đang cháy. Ông ta lầm lũi quay người đi.
Không lâu sau, Cái Này nhanh chóng thế vào vị trí của người đàn ông trong nhà. Chiếc chân ghế lắc lư bao năm nay giờ đã vững chắc, khe hở giữa hai viên ngói trên nóc nhà bố từng hứa sẽ về lợp lại cũng được Cái Này làm thay. Tôi không phủ nhận rằng từ ngày ông ấy sống cùng hai mẹ con, tôi cảm nhận được sự bảo bọc và bình yên mơ hồ. Nhưng những cảm giác mang tính tạm bợ ấy không đủ làm tôi hài lòng. Trong thâm tâm tôi vẫn chờ cơ hội để cắt đứt mối quan hệ mà tôi nghĩ ngay từ đầu không nên bắt đầu.
***
Rồi cơ hội ấy cũng đến. Một ngày nọ, nhân lúc mẹ đi ăn đám giỗ ở xóm trên, tôi thực hiện kế hoạch của mình. Trong nhà chỉ còn tôi và Cái Này, một người đàn ông ngô nghê hệt một đứa trẻ lên ba sẽ chẳng ngờ rằng tôi đang dần đưa ông ấy đến một trò mưu ma chước quỷ. Bỗng dưng tôi tỏ ra thân thiện và tử tế với ông ấy, dù tôi gần như có cảm giác hèn hạ khi đang đóng kịch để lừa một người yếu thế hơn mình.
Tôi chẳng gặp chút khó khăn nào khi thuyết phục Cái Này đi cùng mình lên phố huyện để mua đồ. Lần đầu tiên tôi ngồi sau một người đàn ông, tấm lưng rộng chừng như đang che chắn mọi nắng gió cho tôi, bóng mát và sự bình yên, điều mà tôi chưa từng có với bố. Bỗng dưng tôi thấy lòng mình chùng xuống thật nhanh, thật nhẹ. Trong khoảnh khắc nào đó tôi gần như đã mềm lòng, ý nghĩ muốn dừng cái việc điên rồ mình sắp làm mỗi lúc càng trở nên mạnh mẽ.
Nhưng phần xấu xa đã chiến thắng sự lương thiện trong con người tôi. Đi đến gần chợ huyện, tôi dắt theo xe đạp và dặn Cái Này không được đi đâu, đứng yên ở đó đợi tôi vào mua đồ. Tôi dắt xe vào chợ rồi đi vòng ngay ra cổng sau như một tên hung thủ đang bỏ chạy khỏi nạn nhân của mình. Khi đã chắc chắn thoát khỏi tầm mắt của Cái Này, tôi phóng thẳng về nhà, thấy mình nhẹ tênh như vừa trút được gánh nặng.
Khoảng cách chỗ tôi bỏ rơi Cái Này về nhà tôi khá xa và khó nhớ nổi những ngã rẽ. Với tâm trí bất ổn như của ông ấy, việc tìm được đường trở về nhà tôi chỉ còn mong vào kỳ tích. Vậy mà kỳ tích thực sự đã xuất hiện. Tối hôm đó khi tôi đang ngồi ở hàng hiên để khỏi trông thấy khuôn mặt rầu rĩ của mẹ vì Cái Này tự dưng bỏ đi không một lời từ biệt. Từ phía cổng tôi chợt thấy một bóng người đổ vệt dài trông rất quen trên nền sân bê tông. Tôi kinh ngạc đến mức suýt nữa đã để tiếng kêu thoát khỏi cổ họng khi nhận ra cái bóng đó chính là Cái Này.
Ông ấy xuất hiện trước mặt tôi với hình dung như lần đầu tiên gặp, có khác là đôi mắt đang nhìn tôi lúc này thật sự hoang vắng và bình thản đến rùng mình. Không một lời trách cứ, không thắc mắc. Cái Này vẫn im lặng như ông ấy đã từng. Tội lỗi của tôi bị chôn vùi từ lúc ấy, nhưng nó lại là thứ ám ảnh tôi mãi cho tới tận bây giờ, và chắc còn lâu hơn thế.
Thời gian gần đây Cái Này hay đi cùng mẹ ra bờ biển chờ những tàu cá về trước bình minh để nhặt những con tôm con cá còn sót lại trên tấm lưới, rồi đem ra chợ bán lại cho người khác. Có khi ông ấy và mẹ cùng nhau đi nhặt những con ốc ngón tay dọc theo bờ biển, hình ảnh ấy giống như hai ngôi sao xuất hiện trong một bức tranh vẽ khung cảnh yên bình. Người trong xóm chài cũng dần quen với sự có mặt của Cái Này bên cạnh mẹ tôi, chấp nhận ông ấy như một việc không thể khác, như là sự sắp đặt của số phận. Tôi không biết có nên gọi đây là một câu chuyện tình truyền kiếp giữa hai người họ không, nhưng trên hết, tôi biết mẹ cần Cái Này. Một thứ tình nghĩa không rõ ràng, khó để gọi tên nhưng lại bền chặt vô cùng.
***
Rồi cũng đến ngày đó: Cái Này ở chung phòng với mẹ. Tôi đón nhận chuyện này với tâm thế bình thản, không phẫn nộ, không thắc mắc. Nhưng tôi biết từ trong thẳm sâu lòng mình tôi vẫn không thể chấp nhận được. Tôi ghét khi nghĩ rằng ông ấy đang dần thay vị trí của bố tôi trong tim mẹ. Cho dù chưa một lần tôi được nhìn thấy bố, dẫu chỉ qua ảnh, nhưng ông ấy vẫn là người bố duy nhất của tôi.
Quan hệ giữa mẹ và Cái Này tuy không công khai nhưng một kẻ vô tâm nhất cũng có thể nhận ra ánh mắt của hai người tràn đầy hạnh phúc và mãn nguyện. Cái Này ra dáng một người chồng, trụ cột trong nhà, mẹ sóng vai là một người vợ. Chỉ có tôi là người thừa trong viễn cảnh một gia đình hạnh phúc. Không ai nói nhưng tôi nghĩ vậy.
Thời gian gần đây Cái Này đang tập theo các tàu cá ra khơi. Mẹ giờ có thêm mối bận tâm là ngóng chiếc tàu cá có ông ấy trở về vào lúc bình minh. Mỗi đợt ra khơi kéo dài từ mười ngày cho tới một tháng, những người đàn ông trở về cùng khoang đầy cá và nụ cười rạng rỡ sau một chuyến ra khơi bám biển. Lần nào trở về Cái Này cũng có quà cho tôi, khi là rạn san hô màu đỏ, lúc lại là con ốc biển, có khi còn cả những con sao biển mắc vào lưới đánh cá. Hoặc ông ấy sẽ lặn xuống biển để tìm những thứ ấy chỉ vì một lời nói bâng quơ của tôi. Tôi chẳng hám gì mấy thứ vớ vẩn ấy, tôi chỉ đang muốn hành ông ấy mà thôi. Nhưng trái với những gì tôi nghĩ, Cái Này luôn làm việc đó với một sự yêu thích vô cùng.
Cho đến một ngày tôi không còn khả năng kiểm soát cảm xúc của mình khi tình cờ nghe được câu chuyện giữa mẹ và Cái Này lúc đi ngang qua cánh cửa phòng khép hờ. Mẹ thẹn thùng nói mình đã có thai, tức là tôi sắp có em. Tôi thấy mặt mày xây xẩm. Mọi sức lực bỗng dưng bị rút cạn, tôi như người không trọng lượng, cảm giác mình bị đẩy ra rìa cuộc sống của mẹ khiến tim tôi đau thắt lại, từng tia máu dưới lớp da đang căng phồng lên, các nơ ron thần kinh đều đã mất dần cảm giác. Điều duy nhất tôi còn nghĩ được trong lúc này đó là: Trả thù Cái Này.
Đó là một buổi chiều cuối tháng chạp khi mùa đông mới chỉ vừa chạm ngõ. Bầu trời dày mây, chừng như gió cũng bị ai giam hãm khiến cho bầu không khí trở nên bí bách. Tôi đẩy cửa phòng Cái Này, trong tay đã cầm sẵn một thanh sắt to bằng nửa cổ tay, dài chừng nửa thước. Tôi ghét nhìn cái cách ông ấy sắp xếp mọi thứ đều cẩn thận và tỉ mỉ như thế. Khi Cái Này trở về sau chuyến đi biển đợt này, ông ấy sẽ thấy mọi thứ mình đã lưu giữ và chăm sóc đều không còn giữ được hình dáng ban đầu. Ý nghĩ đó khiến tôi sung sướng đến mức bật cười thành tiếng. Tôi bắt đầu việc thực hiện âm mưu của mình, trước tiên là giật chiếc phong linh trên song cửa sổ xuống, dùng gậy sắt đập nát ra, hất đổ những chậu hoa nhỏ trên bậu cửa, rồi lục tung những thứ đồ cá nhân của Cái Này đem vất hết xuống đất. Và từ trong chiếc túi bộ đội màu xanh đậm, rơi ra một cuốn sổ nhỏ bằng bàn tay...
Bên ngoài gió thổi lật lớp bìa mỏng để lộ những dòng chữ thô kệch, méo mó. Nó giống một cuốn nhật ký, tôi khẽ rùng mình khi nhìn trong ma trận những hàng chữ giun xéo ấy có tên mình. Ngay từ những trang đầu tiên cho tới ngày gần đây, tất cả đều viết về tôi. Về ngày đầu tiên tôi nhìn thấy Cái Này ngủ trên ghế nhà, những bữa cơm tôi ngúng nguẩy không chịu ăn, con hạc giấy ông ấy tặng tôi đã đốt cháy, cả lần tôi bỏ ông ấy ở cổng chợ rồi trốn về… và nhiều thứ khác nữa. Tất cả đều được Cái Này ghi lại từng chi tiết rất cẩn thận.
Nhưng từ đầu đến cuối tôi không thấy bất kỳ một lời trách móc nào từ ông ấy, ngoại trừ: Xin lỗi. Từ đầu đến cuối chỉ có mình tôi làm sai, từ đầu đến cuối vẫn là Cái Này bao dung và tha thứ hết cho tôi. Câu cuối cùng ông ấy viết cách đây vài ngày trước khi đi biển chỉ vỏn vẹn “Giá mà con bé có thể gọi mình một tiếng bố”. Tôi nắm chặt cuốn sổ và chạy như bay ra ngoài bờ biển đón tàu cá về khi bầu trời đang sà xuống thật thấp.
Tôi chạy ra đến nơi cũng vừa lúc tàu cập bến, tôi nhận ra mẹ đang đứng ngược sáng, nổi bật trong đám đông với chiếc áo bà ba màu tím, khăn rằn vắt hờ trên vai, ánh mắt nhìn về phía trước với niềm hân hoan và hy vọng. Trên tàu khoang chứa đầy hải sản tươi sống hứa hẹn những ngày no đủ, nhưng khuôn mặt của những người đàn ông trên con tàu ấy có gì đó tiều tụy và mệt mỏi. Tôi cố căng mắt ra nhìn xem Cái Này đang đứng ở đâu trên con tàu ấy nhưng những gương mặt kia cứ chồng lên nhau, mờ dần rồi tan ra như màu khói lam chiều. Tôi lờ mờ thấy một người đàn ông bước xuống, hai tay đang nâng một vật gì đó tiến đến và trang nghiêm trao lại cho mẹ. Một chiếc áo ka ki màu xanh đậm và con sao biển, những kỷ vật cuối cùng của Cái Này. Mẹ tôi khuỵu hai chân, cúi xuống ôm chiếc áo và con sao biển vào lòng.
Tôi chạy dọc bờ biển, nhìn những con sóng trắng xóa mà hét lớn: “Bố ơi, hãy trở về”.
Mẹ tôi vẫn đứng đó nhìn mãi về phía biển.
Mẹ không khóc…
Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.