Kiện đòi bồi thường 1,1 tỉ đồng cước điện thoại

24/03/2015 07:00 GMT+7

Chiều 23.3, TAND TP.HCM xử vụ kiện dân sự Tập đoàn bưu chính viễn thông VN (VNPT) kiện bà Sỹ Truyền Hoàng Ngân (ngụ P.5, Q.11) đòi gần 1,1 tỉ đồng tiền cước phí điện thoại.

Chiều 23.3, TAND TP.HCM xử vụ kiện dân sự Tập đoàn bưu chính viễn thông VN (VNPT) kiện bà Sỹ Truyền Hoàng Ngân (ngụ P.5, Q.11) đòi gần 1,1 tỉ đồng tiền cước phí điện thoại.

Trong đơn khởi kiện nộp tòa vào tháng 6.2014, VNPT trình bày vào ngày 1.7.2013, bà Ngân có ký hợp đồng cung cấp và sử dụng dịch vụ bưu chính viễn thông với một chi nhánh của viễn thông TP.HCM (thuộc VNPT). Theo hợp đồng, Viễn thông TP.HCM cung cấp cho bà Ngân sim điện thoại thuê bao trả sau số 0918100524. Ngoài việc gọi trong nước, bà Ngân còn được sử dụng sim này để gọi chuyển vùng quốc tế không bị giới hạn bởi vị trí của máy gọi, vị trí máy nhận cuộc gọi, loại máy. Bà Ngân ký quỹ 5 triệu đồng, khi nào không sử dụng dịch vụ này nữa thì sẽ được nhận lại tiền ký quỹ.

Tại phiên tòa, đại diện nguyên đơn cho biết sau khi vừa hòa mạng thì thuê bao của bà Ngân phát sinh cước cao bất thường trong 14 tiếng với số tiền 1,1 tỉ đồng tiền cước gọi, sử dụng dịch vụ chuyển vùng quốc tế, nên Viễn thông TP.HCM đã ngừng cung cấp dịch vụ, yêu cầu bà Ngân thanh toán cước phí nhưng bà Ngân không thanh toán.

Đại diện ủy quyền cho bà Ngân không đồng ý trả tiền và cho rằng phía VNPT đã giải thích hợp đồng không đúng nội dung đôi bên giao kết. Bà chỉ đăng ký sử dụng dịch vụ gọi chuyển vùng quốc tế trong trường hợp khi thuê bao ở nước ngoài, hoàn toàn không có việc gọi quốc tế mà không bị giới hạn bởi vị trí máy gọi, máy nhận như phía nguyên đơn trình bày. Hơn nữa, trong hợp đồng không có thỏa thuận về việc sử dụng dịch vụ gọi quốc tế.

Khi ký quỹ 5 triệu đồng, giao dịch viên giải thích số tiền này là ngưỡng cước phí gọi tối đa, nếu cước phí quá số này thì sẽ bị chặn cuộc gọi. Trong hợp đồng, giao dịch viên còn ghi thêm chữ “ngưỡng 500” và giải thích là ngưỡng cước cuộc gọi trong nước một tháng không quá 500.000 đồng.

Ngoài ra, bà Ngân còn khai đã cho một người quen mang quốc tịch Pakistan sử dụng sim điện thoại trên. Sau khi sự việc xảy ra, bà Ngân không liên lạc được với người này, cũng không biết người này ở đâu nên đã làm đơn yêu cầu Công an TP.HCM làm rõ. Đến nay, ngoài việc cho biết có nhận, thụ lý đơn tố giác của bà thì cơ quan công an chưa thông báo gì thêm.

Ngược lại, đại diện phía VNPT cho rằng khi ký hợp đồng, đôi bên không quy định về giới hạn cước phí cuộc gọi quốc tế và cuộc gọi chuyển vùng quốc tế. Còn khoản tiền 5 triệu đồng mà bà Ngân đã nộp là tiền ký quỹ, khi chấm dứt hợp đồng thì sẽ hoàn trả. Luật sư bảo vệ nguyên đơn cho rằng khi hai bên ký hợp đồng người sử dụng thuê bao cam kết một số nghĩa vụ quan trọng là bảo vệ sim, điện thoại của mình, chịu trách nhiệm về sim, điện thoại ấy, nghĩa vụ thanh toán cước phát sinh và bồi thường thiệt hại nếu có.

Sau khi nghe các bên tranh luận, HĐXX hoãn tuyên án đến chiều 30.3, để nguyên đơn có thời gian chứng minh bị đơn đã xài cước phát sinh như thế nào bằng số liệu, con số cụ thể.

Tòa sơ thẩm đã bác đơn khởi kiện

Trước đó, xử sơ thẩm, TAND Q.11 bác đơn khởi kiện của VNPT. Tòa nhận định theo thỏa thuận của đôi bên thì khi tiền cước phí sử dụng dịch vụ chuyển vùng quốc tế vượt quá 5 triệu đồng, Viễn thông TP.HCM phải tự chặn cuộc gọi; còn để phát sinh ngoài mức này là do lỗi của VNPT nên tập đoàn này phải tự chịu. Hơn nữa, các bên có sự giải thích không giống nhau về nội dung hợp đồng dịch vụ đã ký. VNPT cũng không đưa ra được chứng cứ để chứng minh đã giải thích rõ ràng cho bà Ngân về những nội dung viết tắt trong hợp đồng. Trong việc giao kết hợp đồng, phía VNPT là bên mạnh thế, còn bà Ngân là bên yếu thế. Từ đó, VNPT đương nhiên có hiểu biết hơn so với bà Ngân về những vấn đề liên quan đến việc ký kết và sử dụng dịch vụ viễn thông; hợp đồng cũng là do bên VNPT soạn thảo sẵn. Như vậy, phải giải thích nội dung hợp đồng theo hướng có lợi cho bà Ngân.

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.