Vì sao Đập Đá ở Bình Định thành đập xây xi măng đầu tiên của Trung kỳ?

Nguyễn Thanh Quang
Nguyễn Thanh Quang
26/01/2021 19:00 GMT+7

Những người có công trong việc ngăn đắp đập bổi, đào vét sông mương đưa nước về đồng ruộng đầu tiên ở Bình Định khi chết đều được lập miếu thờ. Đặc biệt nơi đây ghi dấu ấn của Đập Đá - đập xây xi măng đầu tiên ở Trung kỳ .

Ở tỉnh Bình Định có 3 con sông chính: sông Lại Giang, sông La Tinh và sông Côn (sông Tuy Viễn) cùng nhiều chi lưu, bên cạnh hệ thống bờ xe nước, hệ thống đập bổi được người xưa sử dụng ở hầu hết các tuyến sông này để đưa nước về đồng. Hệ thống đập bổi được đắp tương đối sớm, có số lượng nhiều, phân bố khá đậm đặc và dấu tích miếu thờ các bậc tiền hiền còn tồn tại nhiều ở khu vực hạ lưu sông Côn thuộc TX.An Nhơn và các huyện Tây Sơn, Tuy Phước, Phù Cát.

Lập miếu thờ tiền nhân có công xây đắp đập

Hiện vùng hạ lưu sông Côn còn lại một số dấu tích miếu thờ các bậc tiền hiền có công đắp đập ngăn sông, khai thông mương mán đưa nước về đồng, được nhân dân địa phương tu bổ tôn tạo, chăm sóc tế lễ và được xếp hạng di tích như miếu ông Văn Phong (ở xã Tây An, H.Tây Sơn), dinh tiền hiền thờ hai anh em ông Lê Kim Bôi và Lê Kim Bảng (ở xã Tây Phú, H.Tây Sơn).
Ngoài ra còn có 3 ngôi miếu khác là miếu bà Châu Thị Ngọc Mã và bà Trần Thị Ngọc Lân (ở P.Đập Đá, TX.An Nhơn), miếu ông Trần Đình Cơ và ông Nguyễn Cảnh Chiêm (ở thôn Hòa Cư, P.Nhơn Hưng, TX.An Nhơn), miếu ông Trần Văn Nghĩa (ở thôn Lục Chánh, xã Phước Lộc, H.Tuy Phước) đã bị sụp đổ, chỉ còn lại dấu vết nền móng miếu. Năm 2019, miếu hai bà Châu Thị Ngọc Mã và bà Trần Thị Ngọc Lân được nhân dân đóng góp tiền khôi phục lại trên nền miếu xưa phía bắc bờ Đập Đá.
Vùng hạ lưu sông Côn từ làng Kiên Mỹ (nay thuộc TT.Phú Phong, H.Tây Sơn) đến cửa Thị Nại (TP.Quy Nhơn) khoảng hơn 30 cây số, thì cũng có khoảng hơn 30 đập lớn nhỏ (kể cả các chi lưu của sông Côn) đã được Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán Triều Nguyễn ghi chép và Nước non Bình Định của Quách Tấn cũng ghi lại như: đập Văn Phong, Bằng Châu, Đông Tháp, Đập Thốt, Bảy Yển, Tháp Mão, Thị Lựa, Bến Cát, Thạnh Hòa, Tri Huyện, Kỳ Bương, Cây Sung, Sầu Đâu, Bạn Cát, Giáo Đất, Trường Giang, Ngô Đồng, Gia Phù, Gò Đỗ, Hiệp Sơn, Ma Na, Kí Lược, Lão Tự, Phủ Sinh, Văn Chiêm, Phổ Trạch, Kí Lục, Phú Xuân, Trung An, Xuân An, Tiên Yên, Tân Hòa, Thuận Hạc, Đập Đá...
Theo Trần thị Gia phả của họ Trần ở thôn Tri Thiện (xã Phước Quang, H.Tuy Phước), ông tổ Trần Đình Cơ cùng với ông Nguyễn Cảnh Chiêm trong 8 năm ròng dưới triều Lê Cảnh Trị (1663-1671) đứng ra xây đắp công trình thủy nông đập Bến Cát và xây dựng hệ thống kênh mương đưa nước về đồng ruộng 6 thôn: Quảng Nghiệp, Liêm Trực, Tri Thiện, Phục Thiện, Lộc Ngãi và Định Thiện. Đây là công trình thủy nông sớm nhất biết được hiện nay của vùng Bình Định. Từ đó, nhân dân 6 thôn và các chức yển suy tôn ông Trần Đình Cơ và ông Nguyễn Cảnh Chiêm là “Sáng thủy nhị tiền hiền”.
Đồng thời, nhà nước trí trạch 10 mẫu ruộng để đáp lại công đức hai ông và cùng với họ Trần 3 lần xây dựng, trùng tu miếu thờ ông Trần Đình Cơ ban đầu tại thôn Khánh Lễ, sau chuyển về đập Bến Cát, thuộc thôn Hòa Cư (nay thuộc P.Nhơn Hưng, TX.An Nhơn). Hàng năm, mỗi lần cúng tế tại đập Bến Cát đều có đem biếu kiến tiền hiền một tợ thịt heo ba sườn cùng một tộ lòng. Phần thịt này con cháu tiền hiền ở từ đường được hưởng.
Để đôn đốc việc xây đắp, tu bổ đập, nạo vét mương và phân chia nước, 6 thôn tổ chức họp bầu ra Ban Yển. Người trong họ Trần thuộc thôn Tri Thiện luôn luôn được bầu làm Chánh Yển nhằm tri ân dòng họ có người đầu tiên đứng ra khởi xướng xây đắp đập, các dòng họ khác chỉ được bầu làm Phó Yển và Thủ Yển. Tục lệ này được giữ suốt trong 3 thế kỷ (thừ thế kỷ 18 đến thế kỷ 20), đến đời Chánh Yển cuối cùng năm 1975 là ông Trần Văn Từ dòng họ tiền hiền Trần Đình Cơ ở thôn Tri Thiện.
Cũng theo Trần thị gia phả, dưới triều vua Gia Long (1802-1820), việc trị thủy, chống hạn... được đề cao như việc chống giặc, “Yển ước quan bằng” được lập (văn bản quy ước về đê điều). Cháu 6 đời ông tổ Trần Đình Cơ là Trần Văn Nghĩa đã cùng với hai bà họ Châu ở thôn Dương Lăng và họ Trần (ở thôn Háo Đức, xã Nhơn An, TX.An Nhơn) tổ chức đắp đập Bảy Yển tại nơi phân lưu Bắc phái và Nam phái. Hai bà Châu - Trần chịu trách nhiệm Bắc phái, ông Trần Văn Nghĩa chịu trách nhiệm Nam phái. Nhánh sông Nam phái từ thôn Phụ Ngọc chảy xuống hướng Nam qua thành Bình Định xuống Tân An…

Bức hoành họ Trần thôn Tri Thiện

ẢNH: NGUYỄN THANH QUANG

Đồng thời, ông Nghĩa cho đắp bờ cừ suốt 10km từ Tân An (thuộc KV.Hòa Nghi, P.Nhơn Hòa, TX.An Nhơn) đến thôn Tân Điền (xã Phước Quang, H.Tuy Phước), thu hẹp sông Côn để khẩn hoang ruộng từ “bãi cát vàng” và đáy sông Côn tạo ra cánh đồng “xứ Sông Cạn” và những hồ giữ nước chống hạn như: Bàu Sen, Bàu Lác, Bàu Mán. Ông được quan trấn tỉnh Bình Định cấp bằng Đề Lĩnh, người đời sau tôn vinh là “Hậu Hiền Đề Lĩnh” và xây miếu thờ ở thôn Lục Chánh (xã Phước Lộc, H.Tuy Phước).
Đập Bảy Yển chia nước cho Nam – Bắc phái, trong đó có 7 đập ở Nam phái: Thị Lựa, Tháp Mão, Bến Cát, Thạnh Hòa, Tri Huyện, Cây Sung và Gò Đỗ. Đến năm 1959, đập Bảy Yển được xây bằng xi măng và vẫn giữ nhiệm vụ phân nước cho Nam phái và Bắc phái, đưa nước về những cánh đồng của 2 huyện: Tuy Phước, Phù Cát và TX.An Nhơn trước khi đổ ra biển là cửa sông Gò Bồi.

Đập xây bằng xi măng đầu tiên ở Trung kỳ

Theo Đại Nam nhất thống chí, bắc phái (sông Côn) từ thôn Nghĩa Nhơn chảy ra đông - bắc, đến Tân Kiều lại chia làm 2 chi: một chi chảy vào nam 12 dặm đến thôn Phương Mính, làm sông Thạch Yển, lại thuận dòng chảy hơn 30 dặm đến thôn Đa Tài, huyện Tuy Phước. Chi thứ 2 chảy về phía bắc 8 dặm đến thôn Thuận Chánh là sông Gò Găng.
Sông Thạch Yển xưa gọi là sông Bằng Châu, đập bổi mà hai bà Châu - Trần đắp để dẫn nước vào ruộng, trong Đại Nam nhất thống chí gọi là "Bằng Châu giang Thạch Yển" (Đập Đá sông Bằng Châu). Vì sao lại gọi là Thạch Yển (Đập Đá) trong khi đập đắp bằng bổi thì trong Đại Nam nhất thống chí có giải thích: vì lòng sông có đá nên gọi tên ấy. Để nhớ công đức hai bà, người đời sau đã lập dinh thờ hai bà tại Đập Đá và tổ chức tế lễ, hát bội vào tháng 3 hàng năm. Dinh thờ hai bà bị sập đổ trong chiến tranh, còn di tích nền móng, hiện nay người dân địa phương vận động đóng góp kinh phí phục hồi dinh thờ hai bà tại vị trí di tích.
Năm Bính Thìn (1916) triều Khải Định, Hội Bảo nông Bình Định do Bá hộ Nguyễn Cẩn, Bá hộ Lâm Thanh Cẩn và Phú hộ Ôn Huỳnh Châu đứng ra cổ động góp cổ phần xây Đập Đá bằng xi măng thay đập bổi để dẫn thủy nhập điền.
Trong Lâm Viên hành trình nhật ký, là thiên ký sự của Đoàn Đình Duyệt - một quan chức cao cấp triều Nguyễn, nhân chuyến đi công cán đến tỉnh mới Lâm Viên (nay là Lâm Đồng) vào năm 1917, tức là 1 năm sau khi Đập Đá được xây xi măng có ghi lại (bản dịch của Phạm Hoàng Quân) có nêu: Ông đi qua Bình Định được các quan tỉnh đưa đi xem Hội Bảo nông ở trong hạt chất đá đắp đập. Đây là đập dùng xi măng mà đúc thành, cắt ngang giữa sông, dài hơn 100 thước tây, thông dòng nước bằng 9 cửa, vòng vo đen ngòm, nương theo thế nước. Cửa thông nước dùng ván gỗ chia bậc chắn ngang, mỗi bậc đều có thước tấc để tùy lúc đóng mở, cũng lấy đó mà quy ước giới hạn. Đập chia phải trái hai bờ, lấy đá lớn đắp làm móng đề phòng nước lũ xói mòn hai bên bờ sông, trên móng lại chất không biết bao nhiều là đá, quy cách có hơi mới. Bây giờ, ông già bà cả trong hạt vây quanh mà xem ước có cả trăm người, họ đều bảo rằng từ lúc làm Đập Đá này đến nay, được hai vụ trúng mùa lớn, dân tình rất vui vẻ. Với nhà nông ở tỉnh, việc đắp đập rất quan trọng, phàm đắp đập ngang dọc, chứa nước bao nhiêu, xả nước ít nhiều đều phải có văn thư giao ước. Chỗ con Đập Đá này, nguyên trước kia có hai bà mua đất riêng, mở dòng nước riêng mà giữ nước sông Đại An. Đập lúc ấy dùng vật liệu là các thứ gốc rạ, thân tre bện với cát mà đắp thành, thường bị lũ lụt xói mòn, mỗi năm đều phải đắp, nhà nông phải chịu tốn kém mỗi lần đắp khoảng 3 ngàn đồng. Một lần nước lũ phá vỡ đập là cả năm phải chịu đói kém. Năm trước nhà nông Nguyễn Cẩn mới đệ đơn xin gom cổ phần mà đắp đập bằng đá và xi măng, tính ra hơn vạn bạc, làm một năm thì xong. Những người tham gia tổ chức việc đắp đập đều được quan tỉnh tưởng thưởng.
Và ông nhận xét về Đập Đá như sau: “Nay thần đến xem, quả thực thấy đập này bền chắc lắm, trong các quytắc đắp đập thì đây thực là tối tân, ta đang có chủ trương cải cách việc nông nghiệp ở Trung kỳ, nếu phỏng theo đây mà làm thì ắt được lợi ích lâu dài vậy”. Cũng theo Đoàn Đình Duyệt, Đập Đá là đập xây xi măng đầu tiên của Trung kỳ.
Sau năm 1975, toàn bộ đập bổi ở Bình Định đã được thay thế bằng hệ thống đập bê tông cốt thép kiên cố. Hiện nay, Đập Đá vẫn còn sử dụng và được tu bổ kiên cố hơn, dài khoảng 100m có 4 cửa, mỗi cửa có 3 hộc xả nước, mỗi hộc có 2 lớp vách ngăn, thuộc thôn Phương Danh, phường Đập Đá, huyện An Nhơn, cách trụ sở UBND phường khoảng 500m về hướng Nam.
Tên Thạch Yển - Đập Đá đã có từ xa xưa. Nhưng Đập Đá nổi danh từ sau khi đập được xây đắp bằng xi măng làm cho các cánh đồng xung quanh trở nên trù phú, phồn thịnh. Năm 1949, thể theo nguyện vọng của nhân dân, Ủy ban hành chánh tỉnh Bình Định đã thành lập xã Đập Đá (thuộc An Nhơn) gồm 4 thôn: Phương Danh, Bằng Châu, Bả Canh, Mỹ Hòa. Hiện nay, là phường Đập Đá, thị xã An Nhơn. Đập Đá từ tên một con đập bổi đã trở thành một địa danh nổi tiếng:
- Em về Đập Đá quê cha
Gò Găng quê mẹ, Phú Đa quê chồng
- Anh về Đập Đá đưa đò
Trước đưa quan khách, sau dò ý em
- Anh về Đập Đá, Gò Găng
Để em kéo vải sáng trăng một mình.
Hơn 3 thế kỷ, các bậc tiền hiền ở Bình Định nói chung và vùng hạ lưu sông Côn nói riêng đã hình thành một hệ thống thủy nông - đập bổi đưa nước về đồng ruộng, tạo nên những cánh đồng trù phú cho 4 huyện Tây Sơn, An Nhơn, Tuy Phước và Phù Cát… Nơi đây, đã trở thành vựa lúa từ thuở còn là miền biên viễn của Đại Việt cho đến tận bây giờ. Ngày nay, đập bổi đã được thay thế bằng những công trình thủy lợi kiên cố bê tông cốt thép, nhưng những di tích miếu thờ tiền hiền như lời nhắn của tiền nhân cho thế hệ sau về một thời ngăn sông, thông mương đưa nước về đồng bằng đập bổi của ông cha.
Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.