Cổ vật xứ Đông - Bí ẩn bức tượng đứng lên, ngồi xuống ở Hải Phòng

01/10/2015 08:04 GMT+7

(TNO) Bức tượng Đức Linh Lang Đại vương khoác hoàng bào, tay cầm văn tự trên ngai có thể đứng lên nhẹ nhàng rồi lại ngồi xuống từ từ như người thật khiến người xem không khỏi trầm trồ, thán phục.

(TNO) Bức tượng Đức Linh Lang Đại vương khoác hoàng bào, tay cầm văn tự trên ngai có thể đứng lên nhẹ nhàng rồi lại ngồi xuống từ từ như người thật khiến người xem không khỏi trầm trồ, thán phục.

Bức tượng Đức Linh Lang Đại vương trong tư thế ngồi khoan thaiBức tượng Đức Linh Lang Đại vương trong tư thế ngồi khoan thai
Xứ Đông là tên một địa danh cổ, một trấn ở phía đông kinh thành Thăng Long xưa, là vùng văn hóa rộng lớn ở Đông Bắc đồng bằng sông Hồng, gồm tỉnh Hải Dương, TP.Hải Phòng và một phần đất thuộc tỉnh Quảng Ninh, Hưng Yên, Thái Bình. Vùng đất này có nhiều công trình đền, chùa, miếu mạo cổ kính với hàng trăm pho tượng cổ, chạm khắc tinh xảo. Trong số đó phải kể đến pho tượng Đức Linh Lang Đại vương thờ ở miếu Bảo Hà, Đồng Minh, huyện Vĩnh Bảo, TP.Hải Phòng.
Cùng với nghề tạc tượng lâu đời, nghề múa rối cạn, bức tượng đặc biệt này càng giúp cho làng Bảo Hà trở nên nổi tiếng ở xứ Đông. Nhiều du khách thập phương không bỏ lỡ cơ hội được chiêm ngưỡng pho tượng đứng lên, ngồi xuống khi đến nơi đây.
Bức tượng chuyển sang đứng thắng nhờ hệ thống truyền lực kéo đẩy nối với cánh cửa bên phải điện thờ
Bức tượng tạc nét mặt khôi ngô, có hồn như người thực. Cụ Nguyễn Văn Nghĩa, 83 tuổi, thủ nhang miếu Bảo Hà cho biết bức tượng độc đáo này đã gần 700 năm, là “của hiếm” trong số những bức tượng hiện có ở Việt Nam. Người dân địa phương coi đây là một báu vật và luôn bày tỏ niềm tự hào khi sở hữu một cổ vật của ngôi làng truyền thống.
“Pho tượng là sự sáng tạo tài tình của cha ông, kết hợp khéo léo giữa nghệ thuật tạc tượng và nghệ thuật múa rối. Những nghệ nhân xưa đã sử dụng cách chuyển động trong múa rối để “thổi hồn” vào bức tượng tạo nên sự kỳ lạ, độc đáo”, cụ Nghĩa giới thiệu.
Để cho chúng tôi thấy được sự chuyển động linh hoạt của bức tượng Đức Linh Lang Đại vương, cụ Nghĩa mở khóa cánh cửa bên phải điện thờ, chỉ vào hệ thống truyền lực kéo đẩy nối giữa cánh cửa - pho tượng và nói: “Đây chính là bí mật về sự chuyển động của tượng, khi mở cánh cửa thì bức tượng dần đứng lên nhưng khi khép lại thì bức tượng lại trở về tư thế ngồi ban đầu”.
Miếu Bảo Hà do chính bàn tay của những người thợ tài hoa thế kỷ 13 chạm trổ có hoa văn tinh xảo
Ban thờ cụ Nguyễn Công Huệ trong miếu Bảo Hà
Đàn voi được tạc từ... 7 hạt gạo nếp
Miếu Bảo Hà được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 1991, là nơi hội tụ tinh hoa văn hóa làng nghề. Ngôi miếu do chính bàn tay của những người thợ tài hoa thế kỷ 13 chạm trổ có hoa văn tinh xảo, đẽo tạc những bức tượng đẹp được lưu giữ hàng trăm năm qua. Rất nhiều những bức tượng đẹp trong các chùa như chùa Mía, chùa Thầy (Hà Nội) tương truyền là do những người thợ tài ba làng Bảo Hà sáng tạo ra.
Ngày nay, đi dọc con đường làng Bảo Hà luôn vang lên tiếng đục chạm, mài gỗ từ các xưởng tạc tượng. Làng này nức tiếng ở TP.Hải Phòng về nghề truyền thống như tạc tượng, múa rối. Tương truyền, cụ Nguyễn Công Huệ từng bị giặc Minh bắt đi phục dịch ở Quan Xưởng (Trung Quốc). Trong thời gian đó, cụ đã chú tâm học nghề chạm khắc, sơn mài và châm cứu. Đến đời vua Lê Nhân Tông, cụ Huệ trở về quê và dạy nghề tạc tượng cho dân làng. Mọi người suy tôn cụ là ông tổ nghề tạc tượng và được phối thờ tại miếu Bảo Hà.
Làng Bảo Hà có nghề tạc tượng nổi danh khắp vùng
Những người thợ tạc tượng Bảo Hà xuất sắc như cụ Hoàng Đình Ức, được phong chức Cục phó Cục Tạc tượng, tước Nam vào năm Cảnh Hưng thứ 32 (1771), Diệu nghệ bá Tô Phú Luật và phải kể đến Kỳ tài hầu Tô Phú Vượng, người gắn liền với giai thoại “7 hạt gạo nếp tạc thành đàn voi”.
Tương truyền, vua Lê Cảnh Hưng đã vời ông Vượng vào cung tạc ngai vàng. Sau khi tạc xong ngai vàng, ông sung sướng đã tạo ra một kiệt tác nên ngồi thử. Bị thái giám phát hiện và tâu với nhà vua, ông Vượng bị khép tội “khi quân phạm thượng”, nhốt vào ngục tối chờ ngày xử trảm. Sống trong ngục mấy hôm, ông Vượng cảm thấy buồn tẻ, nhìn những cọng rơm nếp còn sót lại một vài hạt thóc nên đã bóc, chuốt 7 hạt gạo nếp thành 7 con voi với các tư thế khác nhau.
Chuyện về đàn voi tí hon truyền đi khắp nơi, nhà vua biết chuyện, cảm phục cái tài của người thợ tạc tượng tài hoa, đã quyết định tha bổng, phong ông Tô Phú Vượng tước Kỳ tài hầu và cho về quê mở mang, lưu truyền nghề nghiệp.
Người dân địa phương còn có nghề múa rối cạn
Bảo Hà là ngôi miếu ở thôn Bảo Động, Hà Cầu và Mai An ở xã Đồng Minh. Miếu còn có tên là Tam xã thượng đẳng từ, thờ Đức Linh Lang Đại vương và phối thờ cụ Nguyễn Công Huệ, ông tổ nghề tạc tượng ở Bảo Hà.
Theo thần phả, Linh Lang là con vua Lý Thánh Tông sinh năm Giáp Thìn (1064), được đặt tên là Hoằng Chân, mẹ là cung phi thứ 9, quê ở Bồng Lai, Đan Phượng, trấn Sơn Tây (nay thuộc Hà Nội). Linh Lang được sinh ra tại làng Trị Chợ, Thủ Lệ (quận Ba Đình, Hà Nội ngày nay).
Khi giặc Tống xâm lược nước ta, hoàng tử đã cầm quân chống giặc. Trong một đợt hành quân, ngài đã tới trang Linh Động (làng Bảo Hà ngày nay) dựng đồn binh, luyện tập binh sĩ, tuyển mộ quân. Khi ngài mất, dân làng xây miếu thờ ngay trên nền đồn binh xưa. Các triều đại sau như Cảnh Thịnh, Tự Đức, Duy Tân và Khải Định đều phong sắc cho ngài là thượng đẳng thần, còn dân làng Bảo Hà tôn ngài là thành hoàng và tạc tượng thờ.
Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.