Chuyện quanh quanh Dâm Đàm: Thân phận cung nữ và hồ Trúc Bạch

05/03/2020 06:20 GMT+7

Hồ Trúc Bạch xưa thuộc địa phận làng Trúc Yên, một làng có nghề biên mành trúc. Thời 'Lê tồn Trịnh tại, Lê bại Trịnh vong', chúa Trịnh Giang (1711 - 1762) đã xây một khu để nghỉ ngơi bên hồ nhưng sau biến nó thành lãnh cung, gọi là Trúc Tầm viện.

Những cung nữ thất sủng bị đưa ra đây tự lao động để sinh sống bằng nghề chăn tằm dệt lụa, ôm đau đớn, tủi hờn làm lụng chờ ngày được Chúa tha về. Lạ thay các tấm lụa do các nàng dệt ra rất đẹp, trở nên nổi tiếng.
Lụa làng Trúc vừa thanh vừa bóng
May áo chàng cùng sóng áo em
Chữ tình gắn với chữ duyên
Xin đừng thay áo mà quên lời nguyền
Cái tên Trúc Bạch (lụa làng Trúc) có lẽ từ tích Trúc Tầm viện mà ra. Cạnh hồ Trúc Bạch, có làng Ngũ Xã là nơi nổi tiếng về nghề đúc đồng, thờ tổ nghề. Xưa có lò đúc tiền của các triều đại phong kiến. Hương cống Ðoàn Nguyễn Tuấn1 có bài thơ Trúc Bạch tiền lô:
Cửu trùng cận niệm dụ dân đồ,
Tiền hóa lưu thông Trúc Bạch lô.
Nhân tại kiều đầu hô tống thán,
Hỏa tòng sa thượng xuất phi phù.
Tằng tằng yên trảo Long Châu tự,
Hạo hạo tuyền lưu Mã Cảnh hồ.
Tuế nguyệt phương viên công khóa túc,
Yêu chiền hà tất thướng Dương Châu.
(Trên cửu trùng (nhà vua) tính kế cho dân đầy đủ. Ðồng tiền lưu thông trong nước từ lò Trúc Bạch. Người trên đầu cầu gọi than đưa tới. Lửa từ trên cát tung đàn ve bay. Lớp lớp khói phủ lên chùa Châu Long. Mênh mông suối chảy vào hồ Cổ Ngựa. Năm tháng vuông tròn, thuế công nạp đủ. Lưng đeo tiền hà tất phải lên Dương Châu).
Ngày xưa tiền đồng có lỗ, xỏ thành xâu, mang trên lưng. Phú ông đi chợ có hầu tớ vác tiền. Lính tráng thì lương “ba cọc ba đồng”, phát tiền sắp trên ba cây cọc nhỏ, ba cây cọc là ba đồng. Dương Châu tích từ Thương Nghệ tiểu thuyết chép: Có bốn người khách chơi với nhau, mỗi người đều nói lên chí nguyện mình. Người thứ nhất nói: Muốn làm quan Thứ sử đất Châu Dương. Người thứ hai nói: Muốn có nhiều tiền. Người thứ ba nói: Muốn cưỡi hạc bay lên trời! Người thứ tư nói: Muốn đeo trên lưng 10 vạn quan tiền, rồi cưỡi hạc bay tới Châu Dương làm thứ sử. (Gồm cả ý nguyện ba người trên). Ý câu thơ nói lên tác dụng của đồng tiền rất lớn, nếu ai có tiền thì có thể thỏa mãn ý muốn) (Phan Trọng Chánh dịch và chú giải).
Có lẽ là hồ phụ và cũng vì Hà Nội có quá nhiều hồ nổi tiếng nên Trúc Bạch gần như không được để ý. Hiếm thấy thơ ca về hồ này. Trong các lần quy hoạch mở rộng Hà Nội, chính quyền cũng không dành nhiều quan tâm. Chỉ đến năm 1943, hồ mới được đưa vào quy hoạch, trong đó có hạng mục kè bờ và làm đường vòng quanh. Vì trên giấy tờ cần phải có một cái tên nên các kiến trúc sư đặt tên tạm thời là phố Hai Bà. Thế nhưng cuối cùng quy hoạch này không được thực hiện.
Năm 1936, Hội Thể thao Bắc Kỳ tổ chức chợ phiên ở đầu đường Cổ Ngư phía hồ Trúc Bạch, thu hút rất đông người tới mua bán và tham gia các trò giải trí, trong đó có cuộc thi bơi dành riêng cho phụ nữ. Có lẽ những người tổ chức được khích lệ từ tinh thần của phong trào “Vui vẻ trẻ trung”, song sự kiện như thách thức dư luận xã hội vẫn bị chi phối sâu sắc bởi những quan niệm của Nho giáo lúc bấy giờ, vai trò phụ nữ được coi là không đáng kể. Thế nhưng vượt lên định kiến cố hữu, cuộc thi vẫn thu hút các cô gái có tư tưởng tiến bộ tham gia. Về nhất cuộc thi bơi này là cô Vũ Thị Quang nhà ở 54 Bis phố Trúc Bạch. Thấy kết quả hội chợ rất tốt, Hội Thể thao Bắc Kỳ đã lập chi nhánh bơi lội ở hồ Trúc Bạch. Tuy nhiên vì hồ nông, nước cũng không được sạch, lại thêm Nhà máy điện Yên Phụ quanh năm xả nước nóng ra đây nên mùa hè nước đã nóng lại càng nóng hơn, không phù hợp cho hoạt động bơi lội. Thêm nữa, có chuyện cô Nghĩa, người phố Trúc Lạc được báo chí gọi là “nữ lưu tân tiến” trong nhóm “Tiểu thư đi bộ Hà Nội - Chùa Trầm” bị chết đuối do lật thuyền thoi nên câu lạc bộ này chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn rồi đóng cửa.
Sau tiếp quản thủ đô, người ta lên kế hoạch sửa sang lại đường Cổ Ngư và bờ hồ Trúc Bạch, đồng thời cũng dự kiến xây nhà hát ngoài trời mang tên Nhà hát Nhân Dân ở cuối phố Phó Ðức Chính. Sân khấu dự kiến nằm trên mặt hồ Trúc Bạch. Tuy nhiên cuối cùng Hà Nội mới chỉ làm được một việc là mở rộng đường Cổ Ngư. Cũng từ năm này, bán đảo Ngũ Xã trở thành nơi đổ xỉ than của Nhà máy điện Yên Phụ. Khi Mỹ đánh bom miền Bắc và Hà Nội, phía nam hồ có trận địa phòng không quy mô để bảo vệ nhà máy điện.
Trong bản quy hoạch Hà Nội năm 1943, hồ có diện tích 29,6 ha. Sau khi kè hồ năm 2000, diện tích hồ co lại như hiện thời chỉ còn còn 22 ha, giảm mất gần 1/4. 
(Lược trích từ Chuyện quanh quanh Dâm Đàm, NXB Trẻ)
1 Ðoàn Nguyễn Tuấn (1750 - ?), hiệu Hải Ông, đỗ Hương cống đời Lê, làm quan thời Tây Sơn. Ðoàn Nguyễn Tuấn để lại một tập thơ chữ Hán Hải Ông thi tập, trong đó có nhiều bài thơ ca ngợi cảnh vật đất Thăng Long.
Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.