Cha tôi, từ chàng sinh viên 'trường Tây' đến người thầy thuốc - Anh hùng

Cha tôi là Thiếu tướng, Giáo sư, Tiến sĩ, Thầy thuốc Nhân dân, Anh hùng LLVT Phạm Gia Triệu. Ông cũng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa VI - Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất, được bầu vào ngày 25.4.1976.

Theo lý lịch, cha tôi sinh ngày 15.1.1918, nhưng ông nói ông tuổi Thìn, do đi học muộn, nên phải khai bớt tuổi. Tôi nghĩ chắc ông sinh ngày 15.1 nhưng năm 1917, trước Tết Đinh Tỵ, năm âm lịch vẫn là năm Bính Thìn.
Nơi chôn nhau cắt rốn của cha tôi là làng Hành Thiện, Xuân Hồng, Xuân Trường, Nam Định - quê hương của nhiều nhà nho, sĩ phu yêu nước. Trong gia đình, cụ nội cha tôi là cụ Phạm Ngọc Chất, đỗ Cử nhân năm Giáp Tuất 1874, làm quan Tri phủ Tĩnh Gia, Thanh Hóa; ông nội cha tôi là Phạm Ngọc Đoan, đỗ Phó bảng năm Tân Sửu 1901 (cùng năm với cụ Phan Chu Trinh), làm quan giáo thụ nhiều tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Cụ Phạm Ngọc Đoan có tiếng là người học rộng, thông minh, cương trực. Trong một chuyến đi vào Thanh Hóa, do nhiễm dịch tả, ông nội tôi qua đời. Bà nội tôi săn sóc ông nội và cũng mất sau đó.
Mồ côi cha mẹ từ bé, cha tôi được họ hàng đùm bọc nuôi dưỡng. Lúc còn nhỏ, ông bắt đầu học chữ nho tại làng. Cha tôi được chú ruột là ông Phạm Tư Tề - dược sĩ Đông Dương, một nhân sĩ yêu nước nuôi cho ăn học. Học xong cấp hai ở Nam Định, ông lên Hà Nội, vừa đi làm thêm vừa học hết Tú tài.
Mang trong lòng niềm tiếc thương cha mẹ, mong muốn chữa bệnh cứu người, cha tôi đã theo học nghề thuốc ở Khoa Y, Trường đại học Đông Dương. Do hoàn cảnh gia đình nên ông đã nỗ lực rất nhiều để học giỏi, thi đỗ điểm cao. Ông kể: khi mới lên Hà Nội, ở trường con nhà giàu mùa hè mặc complet vải đũi, mùa đông mặc đồ len dạ, đi giày Tây; còn ông vẫn mặc áo the, đi guốc. Gia đình mẹ tôi - bà Nguyễn Thị Hồng Nhung, là gia đình khá giả ở Thịnh Hào, Hà Nội, đã giúp đỡ ông rất chân tình.
Năm 1943, ông được công nhận là sinh viên nội trú dự bị (externe), rồi chính thức (interne des hôpitaux) của các bệnh viện Hà Nội chủ yếu là Bệnh viện Yersin (hay Bệnh viện Phủ Doãn, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức ngày nay) và Bệnh viện De Lanessan (hay Bệnh viện Đồn Thủy, nay là Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 và Bệnh viện Hữu nghị).
Tháng 8.1945, Cách mạng Tháng Tám thành công. Lúc đó, cha tôi đang học nội trú ở Bệnh viện De Lanessan. Theo quyết định của Chính phủ, ông được công nhận tốt nghiệp bác sĩ y khoa.
Tháng 11.1945, cha tôi tình nguyện nhập ngũ vào quân y, làm Trưởng ban Quân y Đông Triều (cơ sở quân y đầu tiên của Đệ tứ Chiến khu), sau này là Quân y Trung đoàn 98. Từ đó cho đến năm 1949, ông trụ lại với Chiến khu lịch sử này.
Cha tôi kể lại: trong kháng chiến chống thực dân Pháp, những năm Chiến khu Đông Triều là thời gian khó khăn gian khổ nhất. Vừa mới từ bỏ cuộc sống đầy đủ ở Hà Nội của bác sĩ nội trú, lên rừng núi chiến khu, đã gặp bao khó khăn, thiếu thốn, giặc càn quét; có khi tưởng như bị gặc Pháp bắt. “…Tháng 3-1947, địch tấn công đường 18, Bệnh xá đang ở làng Đại Bộ gần Chi Ngãi. Mới sáng địch đã vây ráp. Anh Triệu cho anh em rút vào sâu. Vợ anh mới sinh cháu chưa đầy cữ. Vai đeo ba lô, tay bế cháu bé, anh cùng anh em luồn rừng; trên trời máy bay bà già vẫn ầm ĩ nhòm ngó. Vùng mỏ với những địa danh nghe thấy đã ớn lạnh: Dá Cóc, Sà Túi, Hồ Sến, Hố Dải, nơi Bệnh xá bị đốt phá. Thế mà bệnh nhân và nhân viên, thuốc men vẫn an toàn. Đức bình tĩnh của anh Triệu và rừng sâu đã bảo vệ được lực lượng ta” (B.s Trần Trọng Vực: “Người Thầy thuốc Nhân dân kiên cường, tận tụy và tài năng”- Tạp chí YHQS, số 1.1993).
Trong trận càn đó, có lúc mẹ tôi phải bịt miệng đứa con mới sinh - anh cả tôi, vì sợ con khóc, địch nghe thấy. Toàn bộ tài sản mang ra kháng chiến của cha mẹ tôi gói gọn trong một cái vali cũng bị mất.
“Giữa lúc ấy, lá thư chiêu hồi của sếp bốt Đông Triều bí mật đến tay anh Triệu. Phía Pháp chắc mẩm sẽ đón được ông đốc tờ trẻ, học trò yêu của quan sáu giáo sư thạc sĩ Huard. Anh Triệu, chị Nhung đã mau chóng có thái độ dứt khoát báo cáo lên chỉ huy trung đoàn. Cuộc sống yên bình, giàu sang, đầy danh vọng không khuất phục nổi anh. Tấm bằng thạc sĩ y khoa mà lá thư hứa hẹn không lay chuyển nổi anh” (Trần Nghiêm: “Lá thư chiêu hồi và tấm lòng kiên định” - đặc san Sự kiện và Nhân chứng, số 28, tháng 4.1996).
Sau này, trong cuộc sống khó khăn, đám trẻ chúng tôi thường ao ước các món quà từ nước ngoài gửi về cho gia đình. Họ hàng cha tôi có nhiều người sống ở Pháp. Khi tôi hỏi: Sao cha không sang Pháp sống cho sướng? Ông trả lời: Theo cách mạng, vì không chịu được cảnh Tây làm nhục dân mình.
Cha tôi, từ chàng sinh viên “trường tây” đến người thầy thuốc-Anh Hùng1

TS.BS Phạm Gia Triệu (mặc quân phục màu đen) đứng hàng thứ 3 sau Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Đại hội Anh hùng Chiến sỹ thi đua Toàn quốc (12.1966 – 1.1967-TL).

Tháng 7.1949, cha tôi được điều lên làm Hiệu trưởng Trường Y tá trưởng (Bắc Giang); Viện trưởng Viện Thực hành, giảng viên Trường Quân y sĩ (Vô Tranh, Thái Nguyên).
Tháng 5.1950, cha tôi được kết nạp Đảng; cũng trong năm đó, ông được cử làm Đội trưởng đội điều trị, đi phục vụ trận đánh Đông Khê và suốt chiến dịch Biên giới. Ông được Bác Hồ gửi thư khen và được tặng thưởng Huân chương.
Năm 1952, Phân viện 8 (tiền thân của Bện viện T.Ư quân đội 108) phát triển quy mô lớn hơn, số giường bệnh tăng từ 100 lên 250, ông được điều động làm Phân viện trưởng (12.1952 – 2.1954). Đầu năm 1954, ông được điều tăng cường cho Đội điều trị 1 là Đội điều trị tiền duyên của Mặt trận Điện Biên Phủ. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, cùng bác sĩ Bộ trưởng Bộ Thương binh Vũ Đình Tụng, cha tôi tham gia chỉ đạo kỹ thuật mổ cho các cơ sở cấp cứu.
Hòa bình lập lại, tháng 7.1954, cha tôi được cử sang Liên Xô học về phẫu thuật thần kinh tại Viện Phẫu thuật Thần kinh mang tên nhà ngoại khoa Xô viết nổi tiếng - Burdenko. Trong ngoại khoa, phẫu thuật thần kinh là chuyên ngành khó, đòi hỏi đào tạo thời gian dài và lúc đó Việt Nam chưa có chuyên ngành này. Ông đã bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ về đề tài “U nhú đám rối màng mạch não thất IV”.
Về nước, cha tôi được giao làm Viện phó ngoại khoa Viện quân y 108 kiêm Chủ nhiệm bộ môn Ngoại của Trường sĩ quan Quân y (5.1960), chuyên viên đầu ngành Ngoại khoa quân y (1976). Ông giữ các chức vụ: Phó chủ tịch Hội Ngoại khoa Việt Nam và Phó chủ tịch Hội Thần kinh, Tâm thần và Phẫu thuật Thần kinh Việt Nam.
Cha tôi đã chủ trì xây dựng ngành phẫu thuật thần kinh trong quân đội. Ông viết nhiều tài liệu chuyên ngành để giảng dạy cho các bác sĩ. Năm 1963, Nhà xuất bản Y học xuất bản cuốn sách “Chấn thương thần kinh” của ông - cuốn sách giáo khoa đầu tiên về phẫu thuật thần kinh.
Cùng với tập thể các bác sĩ quân y, cha tôi đã hoàn thành nhiều đề tài nghiên cứu có giá trị về dị dạng mạch máu não, vết thương sọ não do bom bi, áp xe não do vết thương hỏa khí… Đặc biệt, ông chủ biên cuốn sách “Điều lệ xử lý vết thương chiến tranh” - kim chỉ nam cho các bác sĩ trong xử trí vết thương trong cuộc chiến tranh giải phóng vĩ đại của dân tộc. Ông được nhận giải thưởng Nhà nước năm 2000 về khoa học công nghệ với đề tài: “Bảo đảm quân y Quân đội nhân dân Việt Nam trong chiến tranh cứu nước và giữ nước”.
Ngày 1.1.1967, cha tôi được Quốc hội và Chính phủ phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND. Ông là bác sĩ quân y đầu tiên được phong tặng danh hiệu cao quý này. Trước đó, hai Anh hùng của ngành Quân y được phong tặng ngày 7.5.1956, là Đỗ Văn Châu - Trung đội phó bộ đội tải thương và Hà Nguyên Thị - Chiến sĩ quân y (là hộ lý, y tá).
Năm 1968, cha tôi vào B5 phục vụ giữa lúc cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân đang nóng bỏng. Ông chỉ đạo cấp cứu ngoại khoa chung và trực tiếp mổ các ca thương binh sọ não, cột sống. Ở chiến trường ra, cha tôi mang theo một khẩu cạc-bin (carbine) bán tự động, là chiến lợi phẩm thu được của lính Mỹ. Vật kỷ niệm về cuộc Tổng tiến công Xuân Mậu Thân là một minh chứng nơi trận tuyến, người bác sĩ quân y còn là những chiến sĩ anh hùng.
“Năm 1972, Mỹ lại ném bom miền Bắc. Trong một buổi mổ phiên, anh đang mổ một ca áp xe não cho một đại úy bạn Lào, máy bay Mỹ bắn phá quanh viện. Một quả rốc két bắn gần nhà mổ. Các mảnh vỡ trùm lên bàn mổ. Cả kíp mổ che lấy thương binh. Một mảnh văng vào đầu anh Triệu. Anh vẫn bình tĩnh cho kíp mổ sơ tán, một mình anh ở lại với thương binh. Buổi tối mổ lại, thương binh được cứu sống”. (B.s Trần Trọng Vực - “Người Thầy thuốc Nhân dân…”; sđd).
Năm 1975, cha tôi tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh, tiếp quản Tổng y viện Cộng hòa (nay là Bệnh viện quân y 175).
Tháng 8.1978, sau khi tốt nghiệp Đại học Quân y, tôi được điều về công tác tại Viện quân y 108 và được phân công ngay về Khoa B7 - Khoa Phẫu thuật thần kinh. Lúc đó, thương binh bị vết thương sọ não, cột sống bởi chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn Campuchia, sau khi xử trí bước đầu ở Viện quân y 175, được chuyển ra Viện quân y 108 rất nhiều. Trong hoàn cảnh đó, cha tôi đã dạy tôi tất cả.
Mỗi buổi sáng, sau khi nghe tin tức thời sự, uống ấm chè móc câu thơm nóng, ông dạy tôi khoảng 30 phút. Ông chọn tài liệu chuyên môn hoặc bằng tiếng Nga hoặc bằng tiếng Anh, dựa trên thực tế bệnh lý ở Khoa B7. Đọc, phát âm cho chuẩn; phân tích câu và dịch cho đúng; giải nghĩa cho phù hợp và áp dụng ngay trên ca mổ cụ thể để xem nên mổ, điều trị thế nào. Mỗi loại bệnh lý được học liên tục trong khoảng mươi ngày. Nhờ phương pháp học như vậy, nên tôi không chỉ hiểu chuyên môn mà khả năng ngoại ngữ, vốn từ chuyên ngành cũng tiến bộ rất nhiều. Khi có ca mổ, ông vào xem và chỉ bảo cho tôi từng li từng tí. Ông đứng trông cho tôi mổ. Mỗi ca mổ, đặc biệt các ca bệnh khó, phức tạp, ông gợi ý cho tôi suy nghĩ, tham khảo y văn, trao đổi, tìm phương án mổ tốt nhất. Mỗi ca thất bại là một bài học lớn không quên. Không phải chỉ trong chiến đấu mà trong chuyên môn cũng rất cần sự dũng cảm để nhận ra thiếu sót. Ông đã dạy tôi cách tư duy rất thực tế, ngắn gọn, mạch lạc, nhưng cũng rất khách quan, khoa học.
Năm 1980, cha tôi chuyển qua công tác tại Hội đồng Y học quân sự Bộ Quốc phòng. Tuy không còn làm Viện phó Viện Quân y 108, nhưng là chuyên viên, ông vẫn công tác tại Bệnh viện. Hằng ngày, ông dự giao ban Bệnh viện, điểm bệnh Khoa Hồi sức, thông qua mổ và hội chẩn các ca bệnh nặng.
Năm 1986, tôi thi nghiên cứu sinh theo đường dân y và năm 1987, rất may mắn lại được sang học ở Viện Phẫu thuật thần kinh mang tên nhà ngoại khoa Xô viết nổi tiếng Burdenko - nơi hơn 30 năm trước cha tôi đã học. Thật xúc động khi được gặp các bạn bè, đồng nghiệp của cha: Viện trưởng - Giáo sư Viện sĩ Konovalov, Phó viện trưởng - Giáo sư Serbinenko - người đi tiên phong trên thế giới trong can thiệp nội mạch thần kinh, Giáo sư Philatov - Chủ nhiệm khoa Phẫu thuật mạch máu não - thầy hướng dẫn tôi… Tất cả đều nhớ cha tôi - người bác sĩ Việt Nam học giỏi và đặc biệt rất giỏi tiếng Pháp, tiếng Anh.
Sau ngày cha tôi đi xa (13.6.1990), bạn bè, đồng nghiệp, học trò của cha tôi đã dành cho ông sự nể trọng và tình cảm sâu sắc: “Với anh Triệu, lúc khó khăn cái nhất quán ở Anh là bình tĩnh, ít nói, khẩn trương tìm cách khắc phục. Trong đời thường, có thể anh lạnh lùng, ít tình cảm. Ở lâu mới biết anh vui không quá mức, giận không quá đáng. Anh chị em sinh viên, y tá thấy ở Anh sự bao dung nhân hậu của người anh cả, người thầy đáng kính… Bình tĩnh, kiên cường, nghiêm túc, dũng cảm là những đức tính quý báu của Anh. Từ lúc bị bao vây ở rừng núi Đông Triều, với lá thư chiêu hồi vào lúc gay cấn nhất, sau đó là bom đạn ở B5 (1968) đến vụ nhà mổ Viện 108 bị bắn phá năm 1972, nói lên bản lĩnh của Anh, xứng đáng với danh hiệu Anh hùng” (B.s Trần Trọng Vực - “Người Thầy thuốc Nhân dân…”, sđd).
Cha tôi sống giản dị, yêu thể thao. Ông đọc và suy ngẫm thơ trong Tuyển tập thơ Đường, thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ… Ông cũng rất yêu tranh. Đến nay, gia đình tôi vẫn lưu giữ mấy bức họa cổ mà ông ngoại tôi và bạn bè tặng cha tôi. Ông trồng địa lan và phong lan. Ông trưởng Tràng - một người chơi lan nổi tiếng ở làng Ngọc Hà, Hà Nội, là y tá quân y nhưng là bạn, là thầy dạy cha tôi về lan.
Khi mẹ tôi có tuổi, bệnh khớp nặng thêm, đi lại khó khăn, phải nằm tại giường; cha tôi tận tình chăm sóc mẹ tôi, nhất là đêm hôm, khi chén nước, lúc bô vịt… Nhưng không ngờ, mẹ tôi lại ngồi xe lăn tiễn cha tôi đi xa. Trong suốt cuộc đời, đằng sau cha tôi luôn có mẹ tôi - người phụ nữ cả cuộc đời hy sinh vì chồng vì con và gia đình.
Chính ở nơi đây - Bệnh viên De Lanessan hay Bệnh viên Đồn Thủy, 47 năm trước, cha tôi là sinh viên y khoa nội trú, nhưng của một nước thuộc địa. Thì nay, khi trút hơi thở cuối cùng, cũng trên mảnh đất ấy - Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, ông là một Giáo sư, bác sĩ, một vị Tướng, một Anh hùng của nước Việt Nam độc lập.
Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.