Bức thư đặc biệt

05/02/2019 07:17 GMT+7

Trên chuyến tàu lên biên giới phía bắc 40 năm trước, bạn bè ai cũng có phần việc của họ, không nhờ vả ai được, anh quyết định gửi một lá thư về nhà theo cách của mình.

Người duy nhất trong gia đình “đọc” được nội dung bức thư không có chữ nào ấy, chính là mẹ anh.
Anh là Nguyễn Quang, tên ở nhà là Rê, từng “nhảy núi” trong thời chiến tranh chống Mỹ, quê xã Tịnh Hà, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi.

Từ “nhảy núi” đến quân chủ lực

Có lần tôi hỏi ông Năm Nhuận, từng làm Bí thư Đảng ủy xã Tịnh Hà trong chiến tranh: “Anh Rê không biết chữ mà sao các anh không dạy chữ cho ảnh, để ảnh mù chữ từ chống Mỹ sang chống Trung Quốc vậy?”. Ông Năm Nhuận chậm rãi kể: “Hồi ấy, ngày nào cũng chạy càn, kiếm cái củ mì bỏ vào bụng đã khó, nói gì dạy chữ! Dẫn nó (tức anh Rê - PV) lên núi, đặt lại cho nó cái tên mới là Quang, bày cho nó cách sử dụng súng AR15 và AK thành thạo là “duyệt” luôn vào “biên chế du kích”. Thời ấy chỉ cần bóp cò và ngắm đầu ruồi nòng súng sao cho trúng mục tiêu chứ đâu cần chữ!”.
Anh Rê cùng làng với tôi. Anh sinh năm 1958 nhưng là người từng tham gia “đánh Mỹ”, kể cũng khó tin thật. Làng Hà Nhai xã Tịnh Hà của tôi thuộc vùng “xôi đậu”, tức ban ngày lính quốc gia kiểm soát, ban đêm quân giải phóng có thể về “thăm nhà” bình thường. Vì vậy, hễ thấy thằng nhóc nào “nhổ giò” (dậy thì) là mấy ông giải phóng về dẫn đi lúc nào không biết. Năm 1974, anh Rê 16 tuổi, đang “nhổ giò” nên việc anh “tham gia chống Mỹ” là chuyện đương nhiên, dù chỉ “chống” có một năm thì chiến tranh kết thúc.
Làm trai thời đất nước có giặc, nghe bảo lên đường đuổi giặc ngoại xâm là đi chứ chẳng toan tính gì. Với anh Rê, việc cầm súng cũng như cầm cuốc cầm cày thôi. Vậy nên khi hết giặc, anh lại trở về quê và tiếp tục... bám đuôi trâu như trước khi anh “nhảy núi”. Mẹ anh, bà Xê, là người phụ nữ nhân hậu, mỗi tội quá nghèo. Nghèo đến mức, cái chữ của bà cũng “nghèo” nốt. Bà cứ theo thứ tự A, B, C mà đặt tên cho con. Có lẽ bà muốn “xóa mù” cho mình vào tên của từng đứa con chăng? Thấy bà đặt tên theo mẫu tự như thế, những người có máu hài hước trong làng bảo rằng bà sẽ đẻ đến khi không còn chữ cái để đặt tên cho con thì mới thôi. Nhưng cũng chỉ đẻ đến anh Rê thì chồng chết. Tổng cộng 6 đứa, anh Rê là con út.
Trong chiến tranh, 16 tuổi đi du kích thì được nhưng thời bình, 17 tuổi sẽ không được đi bộ đội vì chưa đủ tuổi. Chiến tranh và hòa bình có những điều khác nhau như thế, dù cách nhau chỉ một năm thôi. Đó là lý do vì sao anh Rê trở về làng tiếp tục bám đuôi trâu chứ không theo đường binh nghiệp. Nhưng rồi “đời lính” một lần nữa đã gọi tên anh. Mùa hè năm 1976, Rê đúng 18 tuổi, anh nhập ngũ. Lần này thì bước lên “cầu vinh quang” và làm lính chủ lực hẳn hoi chứ không còn “nhảy núi” trong đêm như hai năm trước.
Thời ấy, ban tuyển quân không quá chú trọng đến “trình độ học vấn” nên Rê là người duy nhất của làng lên đường làm nghĩa vụ quân sự mà không biết chữ nào. Suốt 6 năm con trai tại ngũ, bà Xê mẹ anh cũng là người duy nhất trong làng không nhận được thư con. Đúng ra là bà chỉ một lần nhận thư con nhưng đó là lá thư vô cùng đặc biệt lúc anh Rê trên đường chuyển quân ra bắc vào tháng 3 năm 1979.

Thư dọc đường tàu

Ngày 7.1.1979, quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với lực lượng cách mạng Campuchia tiến quân vào giải phóng Phnom Penh. Áo của những người lính trận còn lấm lem bùn đất chiến hào, súng AK của họ chưa kịp khóa nấc an toàn, thì bất ngờ 6 tỉnh biên giới phía bắc nước nhà chìm trong khói súng. Những sư đoàn, binh đoàn chủ lực lại vội vã hành quân ra biên giới. Một bộ phận chuyển quân bằng không vận, số còn lại đi bằng tàu lửa. Anh Rê cùng đồng đội lên tàu tại ga Diêu Trì, tỉnh Nghĩa Bình (nay thuộc Bình Định).
Anh Rê và tác giả Ảnh: QUANG PHỤNG
Anh Rê và tác giả Ảnh: QUANG PHỤNG
“Từ bên Campuchia về theo đường 19 bằng xe quân sự, chạy xuyên đêm. Nghe thủ trưởng bảo ra biên giới phía bắc đánh Trung Quốc nhưng chẳng có cách gì để báo tin cho mẹ mình cả. Suốt 3 năm từ 1976 cho đến lúc đó, mình chẳng nhờ ai viết thư hết vì nghĩ sắp ra lính rồi. Nhưng lần này lên biên giới phía bắc, đánh nhau to nên phải nhờ ai đó viết giúp mấy dòng gửi mẹ. Cũng định vậy nhưng phần thì đi xe xuyên đêm, phần thì mỗi người một việc nên chả nhờ ai được. Cuối cùng mình đã quyết định…”, anh Rê nhớ lại thời điểm anh cùng đồng đội về tập kết tại ga Diêu Trì và đưa ra “quyết định” kỳ lạ nhất trong đời lính của mình.
Làng tôi nằm dọc đường tàu chừng 3 cây số. Nhiều buổi sáng cuối xuân đầu hạ của năm 1979, những người phụ nữ đi làm đồng sớm của làng vẫn thường bắt gặp những lá thư không có bì, không tem, ai cũng có thể xem được. Nội dung sơ sài, chữ viết nguệch ngoạc, có lẽ người viết thư ghi vội trên ba lô, trên thành tàu. “Cha mẹ kính yêu! Con và các bạn trên đường lên biên giới phía bắc rồi...”, “Em và con yêu thương! Khi em nhận được thư này thì anh cùng đồng đội đang ở mặt trận Lạng Sơn…”… Cuối những bức thư ấy, bao giờ cũng có câu này: “Bà con cô bác nào nhận được thư này, nhờ chuyển giùm đến địa chỉ….”. Đó là những lá thư không thể cô đọng hơn mà người lính gửi về gia đình trong những năm chiến tranh biên giới.
Nghe người làng kháo nhau là dạo này dọc đường tàu, bộ đội hay thả thư xuống nhờ người chuyển hộ, bà Xê rất chăm ra đồng sớm. Gặp ai nhặt lá thư nào bà cũng thăm hỏi xem có thư thằng Rê của bà không, dù bà biết, con trai bà chưa từng biết chữ. Rồi lá thư mà bà mong ước hằng đêm ấy cũng đã đến với bà trong một buổi sáng, sương mù còn giăng kín đường tàu.
Như mọi buổi sáng, những người đàn bà trong làng lại ra đồng sớm. Những lá thư dọc đường tàu lại xuất hiện. Bất chợt bà Xê cúi nhặt một chiếc áo cũ. Thoáng thấy nó nằm lăn lóc bên vệ cỏ, bà đã nhận ra ngay. Đó là chiếc áo mà bà đã gói ghém bỏ vào túi xách của con trai hôm tiễn anh Rê ra trận 3 năm trước đó. Với người mẹ ấy, hình như mùi mồ hôi quen thuộc của đứa con trai 18 tuổi năm nào vẫn còn vương vất trong chiếc áo này. Bà Xê ôm chiếc áo trong lòng như ôm đứa con mà bà hằng mong thư nó kể từ khi biên giới phía bắc rền vang tiếng súng.
Hôm ở ga Diêu Trì, trong lúc chẳng nhờ ai viết thư hộ để gửi mẹ mình, anh Rê quyết định lôi trong đáy ba lô chiếc áo cũ để khi tàu chạy ngang qua làng mình, anh sẽ vất nó xuống báo tin cho mẹ mình biết là con trai bà đã lên biên giới phía bắc. Và mẹ anh đã nhận ra “thông điệp” có một không hai ấy từ một chiếc áo cũ của đứa con trai…
Tôi về làng, gặp Rê vừa lúc anh thoát ra từ rừng cỏ, lưng áo đẫm mồ hôi. Mới 60 mà trông anh hom hem quá. “Anh có còn giữ “lá thư” gửi mẹ anh 40 năm trước chứ?”. Anh cười móm mém: “Mẹ mình trước khi mất có đề nghị được đem chiếc áo ấy theo nên nó cũng đi cùng cụ hơn chục năm rồi”.
Giọng anh Rê như lạc trong tiếng rít của đoàn tàu đang chạy qua làng. Đã nhiều chục năm rồi, bao nhiêu đoàn tàu đã chạy ngang qua làng tôi như thế. Không một bức thư nào được ném xuống như 40 năm trước.
Tôi nhủ thầm, lạy trời, đừng bao giờ có những bức thư như thế nữa!
Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.