Bài thơ về hoa cúc nổi tiếng thời Trần bất ngờ liên quan đến… khảo cổ học

22/10/2021 15:00 GMT+7

Trong văn chương Lý - Trần có nhiều thi ca về hoa cúc, tác giả có khi là vua, nhà sư nhưng nổi tiếng phải nói đến bài Cúc hoa của nhà sư Huyền Quang. Điều bất ngờ, dù là thơ nhưng lại liên quan mật thiết tới… khảo cổ học.

Trong bài viết Hoa cúc trong đường thi của Lê Thị Phương Mai đăng trong Hành trang cuộc sống (ngày 11.10.2010), tác giả đã ca ngợi bài Cúc hoa của nhà sư Huyền Quang thời Trần. Nếu xét ở góc độ khảo cứu thì những vần thơ đó lại liên quan và trùng hợp khá nhiều với những phát hiện của khảo cổ học ở thời kỳ này.

Tượng Kinnari thời Lý

Bảo tàng Lịch sử Quốc gia.

Đầu tượng vũ công thời Lý

Bảo tàng Lịch sử Quốc gia.

Theo tác giả Lê Thị Phương Mai, bàn về hoa cúc người ta thường nhắc đến bài thơ man mác hương vị thiền, siêu thoát của nhà sư Huyền Quang (1254 - 1334). Tên thật của ông là Lý Đạo Tái, pháp danh Huyền Quang, tổ thứ ba phái Thiền học Trúc Lâm. Các tác phẩm của ông gồm Chư phẩm kinh, Công văn tập, đặc biệt tập thơ Ngọc tiên tập có bài thơ Cúc hoa nổi tiếng. Phần nhiều tác phẩm bị thất lạc, hiện giờ chỉ còn khoảng 24 bài được lưu lại đến ngày nay. Còn tác giả Nguyễn Lang (trong Việt Nam Phật giáo sử luận) có nói thêm về tác giả bài thơ Cúc hoa như sau: “Huyền Quang giỏi Phật học nhưng thơ của ông bình dị, ít nặng về danh từ Phật giáo. Tuy vậy tính cách đạt độ thanh thoát vẫn bàn bạc trong thơ ông. Trong bài Cúc hoa ta đã đọc những câu ông viết về chuyện ngắm hoa tuyệt diệu, trong đó người với hoa hồn nhiên là một và hình ảnh kỳ diệu của một bông cúc nở trong trạng thái ấy. Ông cười với tất cả lòng từ bi khi nhìn thấy một thiếu nữ vì không thấy được bản chất mầu nhiệm của cúc, đã hái cúc cắm đầy đầu trước khi ra về”:

Niên hòa lộ hướng đương khai

Nguyệt đạm phong quang thiếp thốn hoài

Kham tiếu bất minh hoa diệu xứ

Mãn đầu tùy đáo tháp quy lai

Dịch:

Năm tháng thu về nở thắm xinh

Trăng thanh gió mát thiết tha tình

Cười ai chẳng biết nhành vi diệu

Về xứ tóc đầy hoa khiết trinh

(Hải Đà phỏng dịch)

Cũng theo tác giả Nguyễn Lang phân tích: "Nhà sư Huyền Quang rất yêu hoa cúc. Khi tuổi đã già, lòng khô héo, chỉ có hoa cúc mới làm êm dịu được lòng ông. Trúc với mai đối với ông không thể nào so với cúc được. Trong vườn đây đó ông trồng toàn hoa cúc. Ngồi thiền xong, ông ngồi ngắm cúc cho tới khi người ngắm hoa và hoa…".

Bài thơ Cúc hoa có nhiều tình tiết cảm động, bình dị mà siêu thoát. Ta hãy đọc toàn bài để thưởng thức sự rung cảm của một người trên 70 tuổi, một người xem như hoa cỏ cả thân mạng và cuộc đời nhưng hễ thấy hoa cúc là tâm tình rộn ràng như một người trai trẻ thấy bóng người yêu:

Hoa tại trung đình nhân tại lâu

Phần hương độc tọa tự vong âu

Chủ nhân nhữ vật hồn vô cạnh

Hoa hướng quần phương xuất nhất đầu

Dịch:

Người ở lầu cao hoa trước hiên

Ngồi im tâm tịnh đốt nhang thiền

Vật, người an phận không hiềm tị

Sánh với ngàn hoa cúc trước tiên

(Hải Đà phỏng dịch).

Các triều đại quân chủ ở Việt Nam đã sử dụng hình ảnh hoa cúc cho nhiều vấn đề quan trọng

Tư liệu vũ kim lộc

Nhận thấy những vần thơ của ông tuy ngắn ngủi nhưng đã khắc họa phần nào đời sống văn hóa và nét thẩm mỹ ở xã hội thời bấy giờ như. Trong thơ tả cảnh thiên nhiên thơ mộng cùng với cử chỉ ngây thơ của cô gái hái hoa cúc rồi cài đầy lên đầu. Đây là nét thẩm mỹ được thịnh hành thời bấy giờ, vì vậy mà trên đầu của các tượng Kinnari và vũ công (nhạc công và vũ công ở trên trời) thời Lý - Trần được khảo cổ học tìm thấy tại chùa Phật Tích ở Bắc Ninh (hiện được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia), hoa cúc đã được trang trí dày đặc. Điều thú vị nữa là được cài cả ở trên búi tóc của Phật và còn thấy rõ là cúc vạn thọ đơn. Hình như ở đây đã chỉ ra rằng thẩm mỹ trong đời sống của con người đã được áp dụng cho tượng.

Tiếp đó, câu thơ Sánh với ngàn hoa cúc trước tiên, tức là hoa cúc hơn các loài hoa một bậc. Điều này cũng được chứng minh qua những phát hiện của khảo cổ học, đó là các cảnh dâng hoa cúc cho Phật rất phổ biến ở thời Lý - Trần và đã được chạm khắc trên các bệ đá ở chùa Phật Tích, trên gỗ ở chùa Thái Lạc… Ngoài ra còn được trang trí trên các diềm bia, các đầu tượng Kinnari, cạnh phù điêu và cả đồ gốm, thú vị nhất là mũ trên trên tượng Kim Cương còn được lấy ý tưởng từ hoa cúc. Nhưng tiêu biểu thì phải kể đến bộ đĩa vàng Cộng Vũ (bảo vật quốc gia) được chế tác có hình hoa cúc để cúng Phật.

Đầu tượng Phật thời Lý

TƯ LIỆU 2000 năm gốm Việt Nam

Tuy nhiên một vấn đề được đặt ra là nhà sư Huyền Quang một lòng thờ Phật nhưng tại sao ông lại đề cao hoa cúc, trong khi hoa sen được nhiều người cho rằng là tượng trưng cho Phật? Để trả lời cho vấn đề này thì qua những phát hiện của khảo cổ học ở thời Lý - Trần cũng cho thấy tượng trưng cho Phật là lá đề, còn hoa sen chỉ được dùng trang trí ở bệ, như bệ tượng Phật, bệ thờ, bệ kê chân cột và trên đồ gốm; trong khi hoa cúc lại được dâng Phật rất thịnh hành. Tiếc là sư Huyền Quang không nói rõ bản chất vi diệu của hoa cúc nếu được diễn tả thêm... bằng thơ thì còn gì hấp dẫn bằng.

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.