7% số trường không lên được danh sách thí sinh trúng tuyển, không tham gia lọc ảo

Quý Hiên
Quý Hiên
09/08/2019 10:28 GMT+7

Theo Bộ GD-ĐT, bức tranh điểm chuẩn đợt 1 năm nay có nhiều sự khác biệt. Bên cạnh một nửa số trường có khả năng gọi đủ chỉ tiêu, thì có 7% số trường không lên nổi danh sách trúng tuyển, không tham gia lọc ảo.

Sáng nay, 9.8, trao đổi với Thanh Niên sau khi các trường đại học đồng loạt công bố điểm chuẩn xét tuyển đợt 1 năm nay, bà Nguyễn Thị Kim Phụng, Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học (Bộ GD-ĐT), nhận định: “Qua việc các trường công bố điểm chuẩn xét tuyển đợt 1 cho thấy, bức tranh xét tuyển đợt 1 năm 2019 thể hiện rõ sự phân tầng chất lượng trong cả hệ thống”.

Có nhiều nét khác biệt đáng mừng

Theo bà Phụng, mặt bằng điểm trúng tuyển của hầu hết các trường năm nay đều tăng nhẹ so với năm ngoái. Đánh giá chung, kết quả tuyển sinh 2019 tương đối ổn định như 2 năm trước. Tuy nhiên, kết quả tuyển sinh năm nay cũng có một số khác biệt khá rõ nét mà bà Phụng cho đó là điều đáng mừng.
Cụ thể, sự phân tầng chất lượng trong cả hệ thống thông qua điểm chuẩn bộc lộ ở những biểu hiện như: bên cạnh một số trường tốp dưới còn lấy dưới 15 điểm thì những trường có chính sách chất lượng tốt và có những lợi thế khác đã lấy tới 26 - 27 điểm. Các con số này được công khai là những thông tin rất hữu ích cho người học chọn trường, cho người sử dụng lao động chọn sinh viên tốt nghiệp, người lao động chọn nơi làm việc, và các đối tác chọn nơi cộng tác…
Qua số liệu thống kê của đợt xem xét dữ liệu để xác định điểm trúng tuyển lần 1 cho thấy, khoảng 49% đơn vị tuyển sinh lọc ra được danh sách thí sinh trúng tuyển với số lượng từ đủ chỉ tiêu trở lên; 61% số đơn vị tuyển sinh lọc được danh sách đạt điểm chuẩn từ 70% trở lên so với chỉ tiêu. Có 26% sẽ chỉ tuyển được dưới 50% chỉ tiêu và 7% không lên được danh sách thí sinh trúng tuyển, không tham gia lọc ảo.
Về mặt bằng điểm chuẩn của 2 khối ngành được kiểm soát chất lượng đầu vào bởi điểm sàn, bà Phụng nhận xét: “Điểm trúng tuyển của khối sư phạm đã tăng cùng với mức tăng điểm sàn, trong đó, các trường truyền thống đào tạo sư phạm có mức điểm trúng tuyển cao hơn điểm sàn. Mặt bằng điểm trúng tuyển của các trường đào tạo các ngành sức khoẻ cũng tăng nhẹ và đồng đều hơn so với các năm trước, vì năm nay là năm đầu có điểm sàn riêng cho khối sức khoẻ. Mức điểm trúng tuyển của các trường đào tạo y khoa được rút ngắn khoảng cách, còn từ 21 - 26,75 điểm”.
Bà Phụng nêu thêm vài ví dụ liên quan tới nhận xét trên: “Trường đại học Sư phạm Hà Nội, bên cạnh việc có thí sinh huy chương vàng toán quốc tế đăng ký xét tuyển, còn có 7 ngành lấy điểm trúng tuyển từ 20 điểm. Trường đại học Sư phạm TP.HCM có 7 ngành lấy từ 19,5 - 21 điểm. Đây là mức điểm thấp nhất trúng tuyển, và thực tế, hầu hết các em trúng tuyển cao hơn mức này”.
Cũng theo bà Phụng, điều đáng mừng khác, là không chỉ có khối y dược và khối kinh tế, năm nay một số trường kỹ thuật có điểm sàn ở tốp cao nhất như Trường đại học Bách khoa Hà Nội có 7 ngành lấy từ 24 - 27,42 điểm. Điều đó cho thấy các trường kỹ thuật đầu ngành đã cung cấp chương trình chất lượng. Đa số các trường khác, ngay cả những trường còn thiếu nhiều chỉ tiêu, cũng giữ mức điểm trúng tuyển không quá thấp…

Độ chênh điểm chuẩn thể hiện phân khúc chất lượng

Theo bà Phụng, độ chênh về điểm chuẩn giữa các nhóm trường như đã nói ở trên thể hiện chính sách chất lượng của từng trường và sự phân khúc chất lượng của mỗi nhóm trường trong toàn hệ thống. Điều đó cũng phản ánh uy tín của các trường, đồng thời, cũng phản ánh sự minh bạch về chất lượng trong tuyển sinh và đào tạo…
Điều này rất cần thiết và hữu ích cho xã hội trong điều kiện tự chủ đại học và tạo ra sự cạnh tranh để nâng cao chất lượng tuyển sinh, chất lượng đào tạo giữa các trường trong toàn hệ thống.
Nhìn chung, điểm trúng tuyển thấp phản ánh chất lượng đầu vào thấp. Đa số các trường khác xác định điểm trúng tuyển thấp là trường chất lượng thấp, chưa có uy tín để thu hút học sinh giỏi và buộc phải xác định điểm trúng tuyển thấp. Vì thế, theo bà Phụng, Bộ GD-ĐT càng thấy cần thực hiện biện pháp minh bạch thông tin để người học và xã hội biết, có lựa chọn phù hợp.
Theo bà Phụng, sắp tới, Bộ GDĐT sẽ tăng cường kiểm tra, giám sát quá trình tổ chức đào tạo của các trường để buộc họ phải nỗ lực nâng cao chất lượng trong dạy và học, đạt chuẩn đầu ra theo khung trình độ quốc gia và đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động. Vừa qua, Bộ đã thanh tra một số trường và sắp tới sẽ đẩy mạnh hơn hoạt động thanh, kiểm tra, tập trung vào những trường xác định điểm trúng tuyển thấp và các trường có dấu hiệu thực hiện vượt chỉ tiêu tuyển sinh
Nhưng bà Phụng cũng cho rằng, cần phải phân tích nguyên nhân và phân loại các trường có điểm trúng tuyển thấp để có cách xử lý phù hợp. Có những trường như khối lâm nghiệp, nông nghiệp, thuỷ lợi… thì ngay cả những trường đầu ngành vẫn buộc phải xác định điểm trúng tuyển thấp hơn mặt bằng chung vì xã hội cho là không hấp dẫn. Nhóm ngành này, bên cạnh việc nâng cao chất lượng còn cần phải có đầu tư, ưu đãi với người học, với người lao động trong ngành và tích cực tuyên truyền để thu hút thí sinh.

 Kết quả xác định điểm trúng tuyển đợt 1 

-  Chỉ tiêu từ điểm thi THPT quốc gia: 351.154; trong đó, chỉ tiêu sư phạm là 29.765

-  Số trúng tuyển sau lọc ảo là 405.193, đạt 115% chỉ tiêu; trong đó, trúng tuyển sư phạm là 18.536

-  Các trường trong nhóm phía Nam (90 trường) và phía Bắc (53 trường) đã tham gia đầy đủ, hoạt động hiệu quả. Hệ thống mạng ổn định.

Thời gian

Số mã trường xét tuyển từ điểm thi THPTQG

Số mã trường đạt chỉ tiêu từ 100% trở lên

Số mã trường đạt chỉ tiêu từ 70 đến dưới 100%

Số mã trường đạt chỉ tiêu từ 50 đến dưới 70%

Số mã trường đạt chỉ tiêu dưới 50%

TOÀN QUỐC

18 giờ ngày 8.8

334

163

41

20

86

Tỷ lệ trên mã tuyển sinh

93%

49%

12%

6%

26%

Lũy kế

 

 

61% đạt từ 70%

67% đạt từ 50%

 

So với 2 năm trước

 

Chỉ tiêu theo thi THPTQG

Số trúng tuyển theo thi THPTQG

Tỷ lệ trúng tuyển/chỉ tiêu

Số nhập học theo thi THPTQG

Tỷ lệ nhập học/chỉ tiêu

Tỷ lệ nhập học/trúng tuyển

Năm 2017

348,262

397,445

114,12%

284,756

81,76%

71,64%

Năm 2018

348,332

396,246

113,75%

253,513

72,77%

63,97%

Năm 2019
351.154

 

405.193
115,39%

 

 

 

(Nguồn: Bộ GD-ĐT)

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.